hai chuyến đi Lời tác giả: Trong cuộc đời binh nghiệp của tôi, có hai lần đi xa, vượt đại dương mà tôi vẫn nhớ mãi. Lần đầu, thực tập Đệ Thất Hạm Đội lúc vừa ra trường cuối tháng 07 năm 1970, có dịp quan sát và học hỏi ở một quân chủng Hải Quân hùng mạnh nhất thế giới. Lần thứ nhì, 30 tháng 04 năm 1975, ra đi tình cờ không định trước. Chuyến đi này ảnh hưởng nhiều đến quảng đời còn lại của tôi. Những đoạn hồi ký sau đây được viết lại theo ký ức những gì đã xảy ra hơn 35 năm qua, mong quý bạn thứ lổi nếu có chi tiết nào không đúng. cuộc đời binh nghiệp của tôi, có hai lần đi xa, vượt đại dương mà tôi vẫn nhớ mãi. Lần đầu, thực tập Đệ Thất Hạm Đội lúc vừa ra trường cuối tháng 07 năm 1970, có dịp quan sát và học hỏi ở một quân chủng Hải Quân hùng mạnh nhất thế giới. Lần thứ nhì, 30 tháng 04 năm 1975, ra đi tình cờ không định trước. Chuyến đi này ảnh hưởng nhiều đến quảng đời còn lại của tôi. Những đoạn hồi ký sau đây được viết lại theo ký ức những gì đã xảy ra hơn 35 năm qua, mong quý bạn thứ lổi nếu có chi tiết nào không đúng. S Sau khi ra trường cuối tháng 07 năm 1970, tôi may mắn có tên trong danh sánh trên dưới 100 Tân Sĩ Quan Hải Quân khóa 20 được đi thực tập khoảng hai tháng trên Đệ Thất Hạm Đội của Hải Quân Hoa Kỳ. Gần hai tháng làm thủ tục, đổi tiền, may sắm quân phục và trình diện hàng ngày ở Câu Lạc Bộ nổi trong Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Cuối cùng, chuyến đi thực tập đã được khởi đầu bằng đáp phi cơ từ phi trường Tân Sơn Nhất ra đến Đà Nẳng. Tôi không nhớ rỏ có bao nhiêu Tân Sĩ Quan Hải Quân khóa 20 trong nhóm đi chung với tôi ra Đà Nẳng. Chỉ còn nhớ người bạn thực tập chung trên chiếc Khu Trục Hạm với tôi là bạn NVNhư. Từ Đà Nẳng, tôi và Như được di chuyển bằng phi cơ trực thăng đến một chiếc Hàng Không Mẫu Hạm của Hải Quân Hoa Kỳ. Đó là chiếc USS America (CV-66). Chiếc HKMH này đang hoạt động ngoài khơi Vịnh Bắc Việt với nhiệm vụ oanh tạc các mục tiêu quân sự của Cộng Sản Bắc Việt trên đất Bắc. Có dịp sinh hoạt trên một chiếc HKMH thì mới hiểu được sức mạnh ưu việt của Hải Quân Hoa Kỳ. Mỗi lần cất cánh, phi cơ được thêm sức đẩy bằng một “cái cần” xử dụng hơi nước (steam-powered catapult) gắn liền với sàn tàu. Chiếc USS America có tất cả bốn hệ thống steam-powered catapults. Mỗi hệ thống này có khả năng đẩy một chiếc phi cơ nặng 70,000 pounds từ zero đến 150 mph trong 2 seconds với khoảng cách 250 feet trên phi đạo. Mỗi lần đáp xuống, phi cơ được một trong ba sợi dây cáp kéo lại. Những sợi dây cáp này chỉ được căng ra mổi khi có phi cơ đáp xuống. Nếu lỡ không móc vào những dây cáp nầy khi đáp xuống, phi công phải cất cánh lên rồi sau đó đáp lại lần nửa. Những hoạt động cất cánh và đáp xuống nầy được điều khiển bởi nhiều nhóm nhân viên mặc áo màu khác nhau (để phân biệt nhiệm vụ của từng nhóm) trên sàn bay. Có hai đài truyền hình trên chiếc HKMH này, một đài truyền hình màu và một đài truyền hình trắng đen. Tổng số nhân viên trên tàu trên dưới 4,500 người. Sau hơn một tháng hải hành trên đại dương, chúng tôi được tin chiến hạm sẽ về Subic Bay, Phi Luật Tân để nghỉ ngơi và sửa chữa. Trước khi rời vùng hành quân, có một chiến hạm khác đến để thay thế chiến hạm chúng tôi. Sau khi bàn giao trách nhiệm, Hạm Trưởng ra lệnh chiến hạm rời Vịnh Bắc Việt, trực chỉ Subic Bay. Cả thủy thủ đoàn reo mừng và nỗi vui sướng hiện rõ trên từng khuôn mặt. Gần cặp bến Subic Bay, chúng tôi được phát lương. Sau khi trừ tiền ăn, chúng tôi được lãnh từ 2 đến 4 US dollards mỗi ngày. Cộng thêm vài trăm dollards được đổi trước khi lên đường, chúng tôi hy vọng sẽ có những ngày đi bờ thoải mái ở Subic Bay. Tàu vừa cặp bến, chỉ chờ lệnh là tôi và Như xuống phố ngay. Trên đường đi, gặp lại một số bạn 20 cũng đang đi thực tập và đi bờ ở đây, chúng tôi họp thành nhóm và bắt đầu đi nhậu ở những quán bar. Giống như những quán bar ở SàiGòn phục vụ quân nhân Hoa Kỳ thời chiến, những quán bar ở đây cũng được thành lập để làm nơi giải trí cho những chàng lính Tam Tạng Hoa Kỳ mỗi khi tàu về bến. Nhóm chúng tôi được dịp cụng ly với những chai bia San Miguel và xem những cô gái Phi đang nhảy múa trên sân khấu. Như thì rất háo hức và enjoy hết mình. Hôm sau, tôi tìm đến PX (nơi bán đồ tạp hóa miễn thuế của quân đội Mỹ) và mua được một bộ máy stereo radio cassette hiệu Panasonic. Trước khi đi thực tập, tôi có mang theo địa chỉ ông Sĩ Quan Cố Vấn Hoa Kỳ (SQ Cố Vấn cho Tiểu Đoàn Pháo Binh của anh rể tôi ở Mỹ Tho) để gởi bộ máy stereo radio cassette về VN nhờ ông lãnh dùm. Nhưng không may là vị Sĩ Quan này vừa hết hạn phục vụ ở VN, phải trở về nước. Bộ máy stereo của tôi đi theo địa chỉ mới của ông về Mỹ!!! Sau đó, ông liên lạc với anh rể tôi và gởi qua trở lại. Tôi đi thực tập xong, trở về mãi đến mấy tháng sau mới nhận được bộ máy hát. Tưởng đâu đã mất luôn rồi!! Dân Phi ở thủ đô hoặc các thành phố lớn hầu hết lai Tây Ban Nha, trắng và đẹp, chớ không đen đúa như những người dân địa phương. Phi Luật Tân là cựu thuộc địa của Tây Ban Nha từ thế kỷ thứ 16. Nếu tôi nhớ không lầm thì có một cô người Phi lai Tây Ban Nha đoạt chức hoa hậu thế giới. Về thức ăn của Phi, tôi thích nhất là món gà chiên, bày bán trên những xe đẩy trên đường. Những buổi tối đi bờ, trên đường trở về chiến hạm, tôi hay mua món gà này đem về ăn khuya với bánh mì, rất ngon miệng. Sau hai tuần lễ đi bờ, tôi và Như được lệnh sửa soạn trở về VN. Có nghĩa là chuyến thực tập đã hoàn tất. Chúng tôi chào từ biệt Hạm Phó, một số Sĩ Quan và nhân viên chiến hạm mà chúng tôi có dịp sinh hoạt chung trong thời gian thực tập. Từ Subic Bay, chúng đi xe bus lên phi trường quân sự Clark Air Base rồi từ đó đáp máy bay về thẳng Sài Gòn. Sau vài tuần nghỉ ngơi, tôi vào trình diện Bộ Tự Lệnh Hải Quân và được bổ nhiệm phục vụ trên Hải Vận Hạm Hậu Giang, HQ 406. Còn Như thì được lệnh ra phục vụ Hải Đội 1 Duyên Phòng ở Đà Nẳng. Theo tài liệu Hải Sử của Hải Quân Hoa Kỳ, cả ba chiến hạm mà chúng tôi có dịp đặt chân lên đều đã “về hưu” (decommissioned). Hàng Không Mẫu Hạm USS Shangri-La rời Subic Bay ngày 09 tháng 11 năm 1970 trở về Mayport, Florida ngày 16 tháng 12 năm 1970. Sau đó, được kéo về Boston Naval Shipyard và về hưu ngày 30 tháng 07 năm 1971. Khu Trục Hạm USS Keppler, được thiết kế bởi Công Ty Bethlehem Steel Company, Shipbuilding Division ở thành phố San Francisco thuộc tiểu bang California, hạ thủy ngày 24 tháng 06 năm 1946. Tham dự chiến tranh ở Việt Nam qua chiến dịch “Sea Dragon” (ngăn cản và tiêu diệt nguồn tiếp tế nhân sự và vũ khí của quân Cộng Sản Bắc Việt vào miền Nam bằng đường biển) và hoạt động hộ tống HKMH của Đệ Thất Hạm Đội ngoài khơi Vịnh Bắc Việt (Yankee Station). Về hưu ngày 01 tháng 07 năm 1972, chuyển giao cùng ngày cho Hải Quân Thổ Nhĩ Kỳ với tên mới là Tinaztepe và sau cùng phế thải năm 1982. Hàng Không Mẫu Hạm USS America hạ thủy ngày 01 tháng 02 năm 1964. Tham dự chiến tranh VN lần đầu vào tháng 05 năm 1968, lần thứ nhì vào tháng 06 năm 1970 và lần thứ ba vào tháng 06 năm 1972. Sau hơn 30 năm hoạt động, chiếc HKMH này đã về hưu ngày 09 tháng 09 năm 1996 tại Norfolk Naval Shipyard ở Portsmouth, Virginia. Tài liệu tham khảo từ website của Hải Quân Hoa Kỳ và FAS: a. http://www.chinfo.navy.mil/navpalib/ships/carriers/histories/cv66-america/cv66-america.html 30 tháng 04 năm 1975 Trước khi rời SàiGòn đi Bình Thủy nhận nhiệm sở mới, tôi đã nghe một vài bạn 20 ở Bộ Tư Lệnh Hạm Đội cho biết các Hạm Trưởng đi họp về ra lệnh Sĩ Quan nghiên cứu hải trình đi Guam hoặc Subic Bay. Tôi có linh cảm sẽ có một chuyến di tản lớn. Tuy vậy, tôi vẫn trấn an gia đình Chú Thiếm tôi ở SàiGòn là chắc không có gì nguy hiểm. Chú tôi đang tìm cách xin giấy tờ để đi di tản qua ngã Tòa Đại Sứ Mỹ. Gia đình ba má tôi ở Biên Hòa, ông anh ruột đang làm Sĩ Quan Quân Báo cho Sư Đoàn 3 Không Quân ở phi trường Biên Hòa. Một ông anh rể, SQ Pháo Binh của Quân Đoàn II, vừa di tản từ Ban Mê Thuộc về Biên Hòa, rồi lại ra Phan Thiết trình diện đơn vị vừa rút về tái phối trí ở đây. Tôi không liên lạc được với ai trong gia đình từ lúc xuống Bình Thủy. Sáng ngày 30 tháng 04 năm 1975, tôi có nhiệm vụ dẫn khoảng 6 nhân viên gồm Hạ Sỉ Quan và Thủy Thủ đi tuần tiểu ngoài Căn Cứ. Cạnh Căn Cứ YTTVBT là phi trường Trà Nóc. Nhìn lên trời, tôi thấy những chiếc trực thăng của Không Quân từ từ rời phi trường, trên trực thăng chở xe gắn máy, tivi, thường dân. Mấy phi công đưa tay vẩy vẩy, ra hiệu bảo chúng tôi đi đi. Tôi cảm nhận là tình hình không yên. Sau khi đi tuần tiểu xong, tôi dẫn cả nhóm trở về căn cứ, thì nghe tin Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng. Tôi ra lệnh tất cả nhân viên giao trả vũ khí vào kho và nói: "Tình hình chắc không yên đâu, các anh về lo liệu cho gia đình và thân nhân đi". Sau đó, tôi về phòng, soạn những giấy tờ cá nhân cần thiết đem theo, rồi từ từ xuống cầu tàu. Trên đường đi, tôi có ý tìm bạn Toàn nhưng không gặp. Xuống đến cầu tàu thì tôi thấy có hai chiếc PCF đang cặp bến ở đây. Sáng hôm sau, thủy triều lên, hai chiếc PCF bắt đầu ra cửa biển thì không còn thấy bóng dáng chiếc tàu nào hết!!! NT Hào quyết định đi về hướng Thái Lan. Trên đường đi, gặp một vài ghe đánh cá, chúng tôi hỏi thăm thì họ nói tối hôm qua có một chiếc tàu rất to (chiến hạm của Đệ Thất Hạm Đội) ở đây. Chúng tôi lênh đênh trên biển gần hai ngày, vừa mệt mỏi vừa say sóng, ai cũng rã rời. Mưa bắt đầu trút xuống, càng lúc càng nặng hột, lại thêm một chiếc PCF bất khiển dụng (máy hư). Tôi cố gắng phụ giúp một anh nhân viên sửa nhưng chưa được. NT Hào ra lệnh bỏ chiếc PCF bất khiển dụng, tất cả qua chiếc PCF còn lại và tiếp tục đi. Lúc đó, nhìn xa xa, bỗng thấy có một chiếc tàu hàng dân sự đang đi thật chậm và gần đó có một chiếc tàu LCM của HQVN đang cố gắng tiến gần tàu buôn này. Chúng tôi mừng quá, cố gắng tiến về chiếc thương thuyền này và đồng thời bắn mấy trái sáng ra hiệu. Khi tất cả mọi người từ chiếc LCM lên được chiếc tàu buôn thì chúng tôi cũng vừa đến. Và chúng tôi cũng được cho lên tàu, sau khi bỏ lại tất cả vũ khí. Thời đó, HQ Tr/úy NN NMHiếu là Trưởng toán Trục Vớt Quân khu 4, dưới quyền điều động từ Phó ĐĐ ĐCThăng. Chiều 30 tháng 04, Hiếu hướng dẩn chiếc LCM đi từ bến Ninh Kiều, Cần Thơ lúc 7 giờ chiều. Trên chiếc LCM có HQ Tr/tá CK NNXuân, HQ Tr/tá BViên, HC2 NHKiệt, 1 bác sỉ dân sự và 2 chủ tiệm vàng. Tổng cộng trên dưới 150 người, vừa quân lẩn dân sự. Sáng hôm sau, ra khỏi cửa biển thì gặp 2-3 chiếc Yabucây do HQ Đ/úy Sinh ( k.17) trưởng toán. Trên ghe có HQ Đ/tá CK LKSa và 2 đứa con trai. Tất cả bỏ ghe lên LCM của Hiếu ( khoảng 40 -50 người ). Và gặp tàu buôn Đại hàn cứu vớt sau đó. Mỗi ngày, những người phu Thái Lan (làm việc trong bến tàu), trên đường về đi ngang qua và ném lên tàu cho chúng tôi chuối, cơm, kẹo, bánh v..v. Sau này, mỗi lần nhắc đến chuyện tỵ nạn, tôi đều không khỏi xúc động trước nghỉa cử cao quý của những người dân Thái Lan này. Ngoài ra, có ông đại diện Hàng Không VN ở Bangkok (không nhớ tên) cũng đem đến tặng chúng tôi một số sách báo, tiểu thuyết tiếng Việt. Chúng tôi được đưa đến tạm trú trong một trường tiểu học. Trước đó vài tuần, nơi đây cũng đã tiếp nhận khoảng trên 1000 người Việt (có thân nhân là người Đại Hàn), được di tản từ SàiGòn giửa tháng 04 năm 1975 bằng hai chiến hạm LST của Hải Quân Đại Hàn. Để phân biệt hai nhóm, những người đến trước được phân phát quần áo màu xanh, còn chúng tôi thì nhận quần áo màu đỏ. Thành ra, mới có danh xưng: “toán áo xanh" và "toán áo đỏ”. Tổng cộng hai nhóm lên đến trên dưới 1200 người. Hội Hồng Thập Tự Đại Hàn chuẩn bị rất chu đáo. Mỗi người chúng tôi được phát khăn tắm, bàn chải đánh răng, kem đánh răng, quần áo ngủ, mền, gối ..v..v.. Mỗi ngày, chúng tôi được ăn uống ba bữa đầy đủ. Tôi vẫn còn nhớ mì, trứng và kim chi là những món chính. Từ từ, chúng tôi lập thành toán đá banh và đánh bóng bàn, còn bên áo xanh thì lập nhóm văn nghệ trình diển giúp vui trong khi chờ đợi đại diện các quốc gia đến phỏng vấn để nhận tỵ nạn. Vào trại chừng hai tuần, thì tôi gặp được người quen cùng quê ở Biên Hòa, chị Huệ và gia đình Cô Tư Kiên, thuộc toán áo xanh đến trước, từ đó mới liên lạc được đứa em bà con đang du học bên Thụy Sỉ, và được gởi cho $100 US dollards. Tôi bắt đầu sống thoải mái hơn một chút, có tiền mua thuốc lá và ăn vặt. Hình như lúc đó 1 dollard đổi được 5 đồng Won (tiền Đại Hàn). Giã từ Pusan, chúng tôi lên chiếc phi cơ thương mại của hãng World Airways để đi Hoa Kỳ. Chặng dừng chân đầu tiên khi đến Hoa Kỳ là phi trường Anchorage, tiểu bang Alaska. Ghé phi trường nghỉ chờ tiếp tế nhiên liệu, tôi vào phòng đợi mua một gói thuốc lá Marlboro. Lúc đó, một gói thuốc lá chỉ có 15 xu. Sau đó, chúng tôi được đưa đến trại Fort Chaffee thuộc tiểu bang Arkansas và bắt đầu cuộc sống lưu vong tỵ nạn từ đó……. Bạn NMHiếu chờ phỏng vấn quá lâu nên quyết định đi Canada trước chúng tôi. Bốn năm sau, bạn qua Mỹ và hiện sống ở San Jose, California. Tôi không được tin NHKiệt sau khi rời trại Fort Chaffee. Gần đây vài năm thì mới liên lạc được với Kiệt. Và biết được 2 vợ chồng qua Pháp định cư tại Marseille. Toàn thì kẹt lại, sau đó mới sang được Hoa Kỳ, hiện định cư tại Tiểu bang Utah. Tân (thuyền trưởng PCF) qua Đại Hàn rồi đi Mỹ cùng lượt với tôi, rồi bặt tin luôn. Tôi mang ơn người bạn này vì nếu không có bạn thì chưa chắc tôi đã đi được. NT Hào và tôi cùng theo đuổi một cô cựu sinh viên trường Luật thuộc nhóm áo xanh trong thời gian tạm trú ở Pusan. Cuối cùng, tôi là kẽ may mắn. NT Hào đã qua đời tháng 07 năm 2001 ở San Jose, hình như bị ung thư phổi. Ba má tôi bình yên, hơn bốn tháng sau mới biết tin tôi đã sang được bến bờ Tự do. Đến cuối năm 1992, tôi mới có dịp về VN thăm gia đình lần đầu. Năm năm sau thì Ba tôi qua đời, hưởng thọ 90 tuổi. Tôi có về lo thủ tục chôn cất cho Thân Phụ tôi. Má tôi mất tháng 08 năm 2010. Vợ chồng tôi và đứa con trai cũng về VN lo đám tang cho Má tôi. Có gặp 3-4 bạn 20VN từ SàiGòn lên phúng viếng. Anh ruột tôi, chỉ vì tiếc chiếc xe Honda 90, đem về nhà cất, trở lại phi trường thì lỡ chuyến bay. Ở lại, anh bị đi học tập cải tạo trên ba năm, trở về vài năm sau thì được xuất cảnh theo viện HO và hiện sống ở San Jose, California. Anh rể tôi, kẹt ở Phan Thiết, trở về Biên Hòa, ra trình diện và đi học tập cải tạo. Lý lịch là Sĩ Quan cấp tá, du học quân sự tại Hoa Kỳ, nên anh “được” nếm mùi 13 năm ở núi rừng Hoàng Liên Sơn miền Bắc. Trở về sau 13 năm lưu đày, anh có tên trong danh sách đi Mỹ diện HO nhưng anh không đi, ở lại với chị cả tôi để săn sóc Ba má tôi. Anh đã mất năm 200x. Chú tôi mất năm 2012. Hai vợ chồng chúng tôi có qua Pháp dự đám tang. Và có dịp đến ở chơi nhà AC ĐHTrí vài ngày. Thiếm tôi mất năm 2018. C Còn tôi thì “lưu lạc giang hồ”, từ trại Fort Chaffee, ra tiểu bang Missouri ở tạm đi làm vài tháng, rồi lên Iowa theo học ngành Điện tại trường Iowa State University ở thành phố Ames với đứa em bà con. Trong thời gian này, tôi có dịp theo HMChí ( học cùng trường ISU với tôi ) về Nebraska, cách trường ISU chừng 50 dặm, thăm bố là Cố HQ Đ/Tá HVNgạc. Lúc đó, tôi quên hỏi Ông về trận hải chiến Hoàng Sa. Theo học tại trường ISU được hai năm thì tôi lên tiểu bang Wisconsin lập gia đình với cô cựu sinh viên trường Luật, rồi di chuyển qua California và định cư cho đến bây giờ lê văn châu ( hiệu chỉnh mới nhất 30/04/2020 45 năm quốc hận) Chú tôi mất năm 2012. Hai vợ chồng chúng tôi có qua Pháp dự đám tang. Và có dịp đến ở chơi nhà AC ĐHTí vài ngày. Thiếm tôi mất năm 2018. C òn tôi thì “lưu lạc giang hồ”, từ trại Fort Chaffee, ra tiểu bang Missouri ở tạm đi làm vài tháng, rồi lên Iowa theo học ngành Điện tại trường Iowa State University ở thành phố Ames với đứa em bà con. Trong thời gian này, tôi có dịp theo HMChí ( học cùng trường ISU với tôi ) về Nebraska, cách trường ISU chừng 50 dặm, thăm bố là Cố HQ Đ/Tá HVNgạc. Lúc đó, tôi quên hỏi Ông về trận hải chiến Hoàng Sa. Theo học tại trường ISU được hai năm thì tôi lên tiểu bang Wisconsin lập gia đình với cô cựu sinh viên trường Luật, rồi di chuyển qua California và định cư cho đến bây giờ .......... lê văn châu ( hiệu chỉnh mới nhất 30/04/2020 45 năm quốc hận)học tại trường ISU được hai năm thì tôi lên tiểu bang Wisconsin lập gia đình với cô cựu sinh viên trường Luật, rồi di chuyển qua California và định cư cho đến bây giờ .......... lê văn châu ( hiệu chỉnh mới nhất 30/04/2020 45 năm quốc hận) |
Xin chào quý Đồng Hương