Mấy năm gần đây tôi đã đi nhiều cruises. Ngắn hạn như cruise Alaska, cruise Hawaii, cruise phía Tây Địa Trung Hải qua các nước Ý, Pháp, Tây Ban Nha. Dài hạn hơn như cruise Nam Mỹ, khởi hành từ thành phố Santiago của Chile chạy xuống mũi Nam Mỹ, vòng qua Cape Horn rồi chạy ngược lên thành phố Buenos Aires của Argentina.
Gần đây hơn tôi đi cruise vòng quanh biển Baltic thuộc Bắc Âu từ thành phố Copenhagen của Đan Mạch, ghé qua các cảng của Đức, Ba Lan, Nga, Phần Lan, Thụy Điền rồi quay về Copenhagen. Đó là những cruises của các hảng Princess, Norwegian, Costa. Những cruises nầy là những tàu lớn chứa trên ba ngàn du khách và nhân viên. Đó là những thành phố tráng lệ nổi trên mặt biển với những khách sạn hạng 5 sao, những tiệm ăn sang trọng, những sòng bài, những khu giải trí cho đủ mọi lứa tuổi... Tuy là những tàu lớn nhưng nhiều hôm gặp biển động như hôm nay, con tàu lắc lư làm nhiều người say sóng, du khách đi lại ngã nghiêng như những người say rượu. Những lúc nầy làm tôi hồi tưởng lại cách đây đúng 40 năm, lần đầu vượt biển người tôi cũng lắc lư say sóng khi ngồi co ro trên một chiếc ghe nhỏ giữa lòng đại dương đầy sóng gió.
***
Ngày cuối năm 1979 tôi và vài người bạn mới ở công ty 471 ở Thủ Đức ăn tiệc tất niên để đưa một năm cũ đi và đón một năm mới đến với nhiều hy vọng có cái gì đó sáng sủa hơn. Nói là ăn tiệc tất niên nhưng thật sự khi xe đưa nhân viên ghé ngả tư Hàng Xanh, chúng tôi xuống và vào một quán cóc dọc lề đương. Đồ nhậu là vài miếng khô cá và một chai rượu đế lớn ngâm thuốc, thuốc gì thì thật sự chúng tôi cũng không để ý. Hôm đó tôi uống quá say và cuối cùng chỉ đủ sức bám vào anh xe ôm mà về nhà.
Về đến nhà thì tôi nhận ra anh cai thợ ở công ty chờ tôi. Anh ta nói gì đó một lúc, tôi nghe tiếng được tiếng không rằng ngày mai 1/1/1980 khởi hành. Sáng sớm hôm sau tỉnh rượu tôi chỉ nhớ là khởi hành chứ không biết điểm hẹn ở đâu. Tôi ra bến xe đò miền Tây và không thấy anh cai thợ. Tôi leo lên xe đò và tới bến Cần Thơ, nhìn quanh quẩn cũng không thấy ai quen. Tôi không ngạc nhiên lấm vì đây không phải lần đầu tôi lâm vào tình trạng nầy. Tôi vào quán định uống một ly cà phê rồi quay về như mọi lần.
Thế rồi anh cai thợ xuất hiện kêu tôi đi theo anh. Anh dẫn tôi và hai cậu khoảng mười lăm tuổi mà sau này tôi biết là con ông chủ hảng và con vợ hai của ông, một anh vào tuổi tôi mà sau nầy tôi biết là trung uý bộ binh mà anh cai thợ cho là trung uý hải quân. Chúng tôi leo lên một xe đò, vì khách quá đông tôi phải ngồi trên mui xe. Xe chạy khoảng hai giờ thì ngưng. Anh cai thợ dẫn chúng tôi vào một ngôi nhà nhỏ vắng người, bao quanh bởi một vườn cây rộng lớn, rồi anh biến mất.
Lúc trời chạng vạng tối thì ba người lạ vào nhà. Họ chia chúng tôi làm ba nhóm đi theo sau ba người hướng dẫn, không được đi quá gần người hướng dẫn và ba nhóm đi cách nhau 10 phút. Tôi là người chót đi theo một cô gái, cô gái đi trước, tôi theo sau cách nhau khoảng mười thước. Đi được một lúc thì cô gái gặp bạn trai chận lại hỏi chuyện, anh nầy nhìn tôi với cặp mắt nghi ngờ, tôi bình tỉnh từ từ đi qua hai người đó. Cô gái trả lời bạn trai và vội vàng bước qua mặt tôi. Cuối cùng tôi vào được một căn nhà lầu nằm ngay trước mặt chợ, sau nầy tôi biết là chợ Long Phú thuộc tỉnh Sóc Trăng.
Tôi xin tạm ngưng ở đây để ghi lại tình trạng sức khỏe của tôi trong giai đoạn nầy. Một hai ngày trước khi rời nhà tôi cảm thấy đau bụng. Cơn đau càng ngày càng dữ dội. Nhất là đêm tạm trú ở nhà trước chợ Long Phú, đau chịu không nổi và đái ra máu. Nhìn nước tiểu đỏ màu lúc đó tôi sợ chết vì bịnh hoạn hơn sợ bị bắt, nghĩ chắc mình sẽ chết trước khi đến được mục tiêu. Những ngày kế đó cơn đau từ từ giảm bớt. Sau nầy tôi mới biết là tôi có sạn trong thận và khi sạn lọt vào đường tiểu thì gây đau đớn vô cùng và lúc sạn thoát được theo đường tiểu thì cơn đau dịu lại.
Tôi xin tiếp tục câu chuyện.
Khoảng ba giờ sáng hôm sau, chúng tôi bước lên hai ghe nhỏ. Hai ba cặp mắt lạ ở trên bờ theo dõi chúng tôi làm tôi hầu như nghẹt thở. Chị chủ nhà với hai con nhỏ chèo ghe tôi ra ghe chính chờ sẵn ở ngả ba sông. Hơn mười người ngồi trong phần có mái che của ghe và ghe từ từ di chuyển dọc theo bờ sông như đi đánh cá. Ghe nầy dài khoảng 8 thước, là ghe đi sông, thành ghe được nâng cao khoảng hai tấc và một máy đuôi tôm được gắn vào đáy ghe.
Mười mấy giờ trôi qua, trời lại tối. Lúc nầy ghe chỉ đậu cách biển vào khoảng chưa tới một cây số. Nhìn ra biển tôi thấy ánh đèn của một tàu lớn, có lẽ là tàu đánh cá quốc doanh.
Ghe thứ hai xuất hiện trong đêm tối. Mọi người bước qua ghe chính. Sau khi di chuyển máy đuôi tôm qua ghe chính, ghe đưa khách bị nhận chìm xuống đáy sông. Vì quá đông một số người phải chun xuống gầm ghe.
Máy đuôi tôm thứ hai được gắn vào thành ghe và ghe từ từ tiến ra biển. Khi ghe rẽ phải hướng về phía Nam, tôi nghe vài phát súng nổ từ tàu đánh cá quốc doanh, chắc đó là những tiếng súng chào vĩnh biệt.
Anh cai thợ xuất hiện trước mặt tôi, đưa tôi một cái la bàn và nói "anh chỉ đường". Tôi hỏi anh trung úy hải quân làm hoa tiêu chỉ đường anh nói đâu, anh không trả lời và quay đi. Cầm cái la bàn trong tay tôi vô cùng lúng túng, không biết phải làm gì. Sau một lúc tôi bình tỉnh trở lại, tôi ra sau ghe gặp anh tài công và biết anh này cũng ra biển lần đầu. Tôi chỉ anh một ngôi sao rất sáng ở hướng Nam và bảo anh cứ nhắm ngôi sao đó mà tiến tới. Tôi quay về ngồi ở mũi ghe và ngủ lúc nào không biết. Khi giật mình tỉnh giấc thì trời lờ mờ sáng. Tôi nhìn anh tài công thì thấy anh đưa tay chào tôi và ra hiệu OK. Nhìn bên này tôi thấy xa xa là đất liền và bên kia xa xa là một đảo lớn. Tôi đoán là ghe đã qua giữa mũi Cà Mau và đảo Côn Sơn. Trên ghe kẻ nằm người ngồi không có một chổ trống.
Ngày thứ nhất trời trong sáng. Gió nhẹ theo hướng Tây Nam. Ngồi trước mũi ghe tôi ra hiệu cho anh tài công trực chỉ hướng Nam. Tôi thả vật nổi trên mặt biển và miệng lẩm bẩm "một ngàn lẻ một, một ngàn lẻ hai...". Sau nhiêu lần như vậy tôi có một ý niệm về tốc độ của ghe. Đột nhiên một bầy cá heo xuất hiện, chúng phóng rất nhanh quanh ghe, lúc trước ghe lúc theo ghe như đùa giởn với người trên ghe, trông rất đẹp mắt. Khi trời tối thì gió Tây Nam trở nên mạnh hơn và mây đen kéo tới. Suốt đêm đó tôi không thấy gì quanh tôi. Gió thổi càng lúc càng mạnh vào mặt tôi. Mắt tôi nhìn chăm chăm vào la bàn và giữ ghe tiến về hướng Nam.
Ngày thứ hai trời âm u, mây hầu như phủ cả mặt biển nhưng không mưa. Gió Tây Nam cùng lúc càng mạnh. Khói máy bay về phía trước mũi ghe theo đúng hướng đi của ghe. Sóng ngầm có lúc đưa mũi ghe lên cao làm cho ghe nghiêng khoảng 5 hay 10 độ rồi đẩy ghe lướt nhanh trên mặt nước. Cứ như vậy suốt ngày và đêm đó. Đêm đó tôi không chớp mắt, cứ luôn luôn nhìn vào la bàn trong tay và ra hiệu bằng tay để hướng dẫn tài công đi đúng hướng.
Sáng ngày thứ ba không có gì thay đổi. Đến trưa tôi cho anh cai thợ biết ghe đã đi khá xa về phía Nam và tôi quyết định đổi hướng Tây Nam để nhắm vào đất liền. Đến chiều thì gió bắt đầu dịu lại và tôi thấy dường như có cái gì bay. Đúng rồi, chim bay. Đó là dấu hiệu quá tốt, trước mắt phải là đảo hay đất liền. Tôi vững niềm tin là mình đã đi đúng hướng nhưng không nói cho ai biết. Thật sự thì không còn ai để mà nói vì trừ tôi và anh tài công mọi người khác thì hầu như không còn biết trời trăng gì nữa, họ nằm la liệt như những người chết. Anh tài công chỉ về phía trước, tôi quay lại thì thấy xa xa có ánh đèn. Mặc dầu mặt biển nhấp nhô, ánh đèn vẫn không thay đổi, chứng tỏ đó là tàu lớn. Anh tài công sai hai ba thanh niên đốt lửa để kêu cầu cứu. Nhưng vô ích, ánh đèn càng lúc càng xa dần rồi mất hẳn.
Tôi giử vững niềm tin, mắt luôn luôn nhìn về phía trước. Hơn một giờ sau tôi thấy như có gì ẩn hiện trong đêm tối. Tới gần hơn. Trời ơi, đó là một hòn đảo. Tôi thức mọi người dậy. Bắt hai thanh niên cầm sào, đứng trước mủi ghe để dò đá ngầm và ra lệnh cho anh tài công cho ghe từ từ tiến đến gần đảo. Đảo tối đen. Tôi ra lệnh anh tài công đi vòng qua bên kia đảo. Ánh sáng làm chúng tôi chóa mắt. Một tàu đánh cá to lớn với đèn sáng trưng hiện ra trước mắt chúng tôi. Tiến lại gần, bằng tiếng Anh tôi hỏi đây là đâu, trên xa vọng xuống "Malaysia". Chúng tôi đã thành công, hay đúng hơn tôi đã thành công. Không biết ngày mai sẽ ra sao, nhưng tôi rất sung sướng đã đưa mọi người đến được Mã Lai. Mọi người như sống lại. Tôi ra sau ghe, cổi hết áo quần và nhảy xuống biển. Nước biển quá lạnh nhưng tôi vẫn ngâm mình khá lâu. Lúc tôi lên ghe, mặc lại áo quần thì thấy mọi người đã ngủ yên và tôi cũng gục luôn không biết lúc nào. Lúc mở mắt ra thì trời đã sáng và tàu đánh cá lớn cũng đi mất.
Mọi người nhao nhao hỏi bây giờ đi đâu. Sau khi ghe lách qua một vài hòn đảo thì tôi thấy một dãy nhà sàn trên mặt nước và một ca nô chạy về hướng chúng tôi. Tôi biết đó là task force của Mã Lai. Tôi cho mọi người biết nhóm task force này chỉ là nhóm cướp cạn, ai có gì quí gía thì dấu đi. Nhóm Mã Lai nầy nhảy lên ghe, một tên hỏi ai là "leader", anh trung úy bộ binh chỉ tôi, tên nầy quay lại gần tôi và bạt tai tôi. Đó là cái bạt tai độc nhất trong đời tôi phải gánh chịu cho cả nhóm trên ghe. Sau đó nhóm này lục soát, chúng xin mấy bình accu, và "mua" một cái nhẩn cưới với giá 2 dollars Mã Lai hay 1 dollar Mỹ. Tôi hỏi một tên khác đảo Pulau Bidong ở đâu, hắn chỉ một đảo ở xa.
Phải mất gần hai tiếng đồng hồ mới tới gần đảo. Xa xa tôi nhìn thấy một bãi cát và hình như có người. Năm 1980 Mã Lai đã nới lỏng cho người tỵ nạn Việt Nam, không còn kéo ghe trở ra biển nữa nhưng để chắc ăn tôi bảo khi tới gần bờ các bà các cô phải nhảy xuống biển và các thanh niên phải đục lủng ghe. Tôi đứng đầu mũi ghe và cho ghe tiến gần đến bờ. Trên bãi cát nhiều người đã hiện rõ hơn, họ quơ tay chào đón chúng tôi và tiếng đầu tiên tôi nghe rõ là tiếng ai kêu "thầy, thầy".
***
Con tàu lắc lư mạnh làm tôi quay lại với thực tế. Tuy ở trên một tàu lớn với đầy đủ mọi kỹ thuật hiện đại nhất, tôi vẫn cảm thấy không được an toàn trong những lúc biển động nầy. Kinh ngạc thay, với một ghe cả ngàn lần nhỏ hơn, cả triệu lần mong manh hơn tàu lớn nầy mà sao ghe có thể vượt qua được những sóng gió của biển cả. Tin hay không, tôi nghĩ đã có một Đấng Thiêng Liêng nào đó đưa đường dẫn lối cho ghe nhỏ của chúng tôi tới được bến bờ.
Lê Quý Thể
Ghi chú : Tôi viết bài nầy để kỷ niệm bước đầu của 40 năm đổi đời.
Ghi chú: Hai tiếng gọi “thầy thầy” là của anh học sinh trường Châu Văn Tiếp, Phước Tuy. Anh là trung úy trốn từ một trại cải tạo và đến Pulau Bidong nhiều tháng trước đây. Anh giao tôi căn nhà “sang trọng nhất đảo” với đầy đủ mọi tiện nghi hôm trước và hôm sau anh rời đảo.
Ghi chú : Nếu không kể đêm ngủ tại đảo hoang, ghe đã vượt biển bốn ngày ba đêm và cuối cùng tắp vào bãi sau của trại tỵ nạn Pulau Bidong vào chiều ngày mồng năm tháng giêng năm 1980