6:26 CH
Thứ Ba
7
Tháng Năm
2024

MỘT VÀI NÉT VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM - TS Lê Thiện Phúc

29 Tháng Tám 201411:58 SA(Xem: 9657)


Một vài nét về văn hóa Việt Nam

Ts. Lê Thiện Phúc

(Ngôn ngữ học)

Mặc dù "văn hóa" là ý niệm rất trừu tượng mặc dù hàng ngày chúng ta vẫn thường đề cặp tới trong sinh hoạt đời sống cũng như trong các lãnh vực văn học nghệ thuật.

Sau năm 1975, ở Việt Nam không hiếm xảy ra những lạm dụng cụm từ "văn hóa" trong nhiều tình huống chẳng hạn như "gia đình văn hóa" hay "lời nói thiếu văn hóa", nhưng ít ai để ý tới cái ý nghĩa của "văn hóa" là gì cả!

Văn hóa, theo định nghĩa của một từ ngữ tương đương trong tiếng Anh "culture" là một tổng hợp đặc tính của một nhóm người nào đó trong xã hội. Theo một nghiên cứu khoa học, văn hóa được ăn sâu trong mỗi cá nhân (Mey 2004: 32); nhưng nó thường được bàn thảo như là thực thể dựa theo sự hiểu biết chung của một xã hội, quốc gia hay dân tộc, chẳng hạn như văn hóa Trung Quốc, văn hóa Nhật Bản hay văn hóa Việt Nam. Nói khác đi, khi nói đến văn hóa Việt Nam là người ta nói đến những đặc thù của người Việt. Tuy nhiên những đặc thù nầy có được sự chấp nhận hay không là do quan niệm của những người liên hệ trong cuộc, hay tùy theo cấp độ ý nghĩa muốn được áp dụng.

Thí dụ, trong một nghiên cứu về ngôn ngữ xã hội, văn hóa Việt Nam được phân biệt xa hơn đó là nền văn hóa dựa trên nền tảng Nho giáo và văn hóa theo định hướng chủ nghĩa Cộng sản (Nguyen 2008: 275). Nếu văn hóa Việt Nam được áp dụng hay định nghĩa dựa theo định hướng chủ nghĩa Cộng sản thì một trong những nét đặc thù của văn hóa Việt Nam là lá cờ đỏ ngôi sao vàng, là "nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý và đảng lãnh đạo". Liệu cộng đồng người Việt tỵ nạn hải ngoại có chấp nhận những nét văn hóa Việt Nam như vậy hay không là một chuyện khác! Chính vì vậy mà khi người Việt hải ngoại về Việt Nam thăm thân nhân không tránh khỏi bỡ ngỡ, lúng túng trước những bảng hiệu "gia đình văn hóa", "nhà văn hóa" hay "trung tâm văn hóa". Người Việt hải ngoại lúng túng trước các bảng hiệu như vậy là điều tất nhiên, bởi vì họ đâu có biết gì về văn hóa Việt Nam theo định hướng chủ nghĩa Cộng sản!

Như vậy cái ý nghĩa đích thực của văn hóa Việt Nam là gì?

Muốn quán triệt cái ý nghĩa đích thực của văn hóa Việt Nam là gì thì ta nên tách rời mọi ý niệm hay thành kiến chính trị để quay về nguồn gốc văn hóa Việt Nam dựa trên tinh thần nhân bản tự nhiên chứ không phải bị áp chế bởi bất cứ hình thức chính trị nào. Lẽ tất nhiên muốn được độc lập trong tư duy hay cách suy nghĩ của mình thì người suy nghĩ phải được sống trong một môi trường tự do, nơi đó nhân quyền được triệt để tôn trọng.

Dù sao, văn hóa Việt Nam có thể nói là đã gắn liền với tư tưởng nho giáo từ hơn một ngàn năm lịch sử của dân tộc. Như vậy, trong bài viết nầy khi bàn về văn hóa Việt Nam tôi căn cứ vào tư tưởng nho giáo, bởi vì đây chỉ là một bài viết ngắn, không có tầm vóc nghiên cứu sâu xa trước một ngàn năm lịch sử dân tộc Việt Nam của chúng ta.

Do đó, khi bàn về văn hóa Việt Nam chúng ta không thể không nhắc đến năm ý niệm Nhân, Lễ Nghĩa, Trí, Tín, mà theo nho giáo thì được gọi là "Ngũ Thường". Nó chính là năm yếu tố luân lý căn bản để trở thành nhân cách một con người. Nói khác đi, người có nhân cách phải có đủ năm yếu tố: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.

Nhân là cách đối nhân xử thế, là tấm lòng yêu thương con người, yêu quê hương đất nước, là thái độ biết gắn cái riêng của mình vào cái chung của xã hội, với sự ràng buộc giữa người và người, bằng những mối liên quan gắn kết với nhau. Nó còn được gọi chung là luân thường đạo lý: Vua – tôi, cha – con, vợ - chồng, anh – em và bằng hữu.

Lễ là nghi thức thể hiện qua cách hành xử, ứng xử hợp lòng người trong cuộc sống; qua đó, xã hội hay người khác đánh giá sự hiểu biết của một cá nhân. Chữ lễ vì vậy là lễ phép, đức độ kính trên nhường dưới trong đạo vua – tôi, cha – con, vợ - chồng, anh – em. Nó còn thể hiện qua những hình thức lễ nghi theo các truyền thống để rồi trở thành một nét văn hóa của dân tộc.

Nghĩa thể hiện vai trò, trách nhiệm của con người với con người, giữa người với đời, với xã hội. Cũng chính vì vậy mà ở đời trong thời nào cũng cần có nghĩa, hay có trách nhiệm với quê hương đất nước, với gia đình dòng họ, ông bà cha mẹ, vợ con, anh em bằng hữu. Biết ơn khi mình đã nhận được những điều may mắn trong cuộc sống. Nhiều người biết quan tâm giúp đỡ mọi người trong xã hội, làm từ thiện, chính là để tỏ lòng tri ân với đời. Nghĩa cũng là biết sống cho mọi người chứ không chỉ sống cho riêng cá nhân mình.

Tuy nhiên, nếu muốn làm được việc nghĩa thì phải có trí, phải có một sự hiểu biết căn bản: Biết khi nào cho, cho như thế nào. Có nhân, có nghĩa mà không có trí thì nhiều khi cái nghĩa cử cao đẹp của mình trở thành vô nghĩa; cái hành động đạo đức của mình có thể trở thành vô đạo đức; bởi vì vô hình chung ta lại đi tiếp giáo cho giặc, và rốt cuộc ta gây ra thảm họa cho nhiều người hiền lương vô tội. Tóm lại, trí là một sự hiểu biết, người không trí tức là không có sự hiểu biết thì không làm được gì hữu ích cả. Ngày xưa đánh giá chữ trí của một con người qua sự hiểu biết về đạo quân tử; ngày nay, ngoài sự hiểu biết về lĩnh vực văn hóa xã hội, triết học thì cần có một sự hiểu biết về khoa học tự nhiên cần thiết cho cuộc sống hiện đại. Hiểu biết nhiều có thể làm được nhiều việc có ích với đời nếu người đó có nhân, có nghĩa trong tâm.

Có có đủ bốn yếu tố: nhân, lễ, nghĩa, trí, mà không có tín thì cũng chưa vẹn toàn. Một người không có uy tín hay không có lòng tin đối với người khác thì cũng chẳng được ai tôn trọng. Chữ tín trong cuộc sống hàng ngày rất quan trọng, bởi vì sống ở đời ai cũng cần có một uy tín nhất định trong quan hệ với mọi người xung quanh. Có được uy tín với bạn bè, với người chung quanh thì sẽ tạo được sự tin tưởng của họ, và nhờ đó sẽ dễ dàng được họ giúp đỡ, hỗ trợ trong cuộc sống. Uy tín là giữ lời hứa - nói thì phải làm.

Có được nhân, lễ, nghĩa, trí, tín chính là có được năm yếu tố kết hợp thành nhân cách của con người để có được sự hài hòa trong mối quan hệ giữa các cá nhân trong xã hội, hay trong gia đình.

Theo truyền thống Việt Nam thì đơn vị cơ bản của xã hội là gia đình chứ không phải là cá nhân. Do đó, sự hài hòa trong mối quan hệ giữa các cá nhân được đánh giá cao hơn thành tích cá nhân (Phạm 2008: 79). Vẻ đẹp thể chất và dáng điệu bề ngoài được coi là quan trọng đối với cả nam giới và phụ nữ, nhưng đức hạnh của người phụ nữ luôn luôn được ca ngợi. Hiếu nghĩa, tình huynh đệ, và lòng trung thành vợ chồng cũng được đánh giá cao. Người Việt Nam có khuynh hướng nội tâm. Đức hạnh của một người thường được giữ kín trong lòng; do đó sự mong muốn của họ được thể hiện gián tiếp bằng cách nói gợi ý, vòng vo, và họ suy nghĩ cẩn thận trước khi nói (Nguyễn 1987: 103).

Các khái niệm về gia đình, sự hòa hợp, đạo đức, hiếu nghĩa, tình huynh đệ, và lòng trung thành vợ chồng được ăn sâu trong văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam. Hầu hết các giá trị văn hóa cho thấy Nho giáo có mặt trong xã hội Việt Nam từ hàng ngàn năm (Marr 1981: 101-135; Duiker 1995: 81). Văn hóa Việt Nam đã bị ảnh hưởng chủ yếu của Trung Quốc trong nhiều thế kỷ vì sự gần gũi về địa lý và liên lạc phát sinh từ xung đột chính trị và kinh tế (Nguyễn 1995: 56). Theo ông Dương Quảng Hàm (1968: 1) thì xã hội Việt Nam đã trải qua sự thống trị của Trung Quốc trong hơn một ngàn năm, giữa 207 TCN và 939 AD.

Trước khi giành được độc lập vào năm 939 AD, người dân Việt Nam đã bị ảnh hưởng sâu sắc của Trung Quốc trong mọi khía cạnh của cuộc sống từ thời gian đó. Ví dụ, trong giáo dục, người Việt Nam đã học chữ Trung Quốc, theo lời dạy của Khổng Tử và thông qua tư tưởng và văn hóa Trung Quốc. Trong gần một ngàn năm độc lập đến cuối thế kỷ XIX, qua nhiều vương quốc trong đó có Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê và Nguyễn, ký tự Trung Quốc vẫn còn được sử dụng bởi tất cả các tổ chức chính phủ (Dương 1968,1-2). Khi hệ thống giáo dục Việt Nam chủ yếu dựa vào Nho giáo, hệ thống chữ viết Trung Quốc được dùng để giảng dạy và dần dần được biết đến như chữ nho (kịch bản Nho giáo), và các học giả trong Nho giáo được gọi là Nhà nho hoặc Thầy nho (giáo viên Nho giáo).

Sự ảnh hưởng của Nho giáo đã đạt đỉnh cao trong xã hội Việt Nam vào năm 1075, khi vua Lý Nhân Tôn tuyển dụng viên chức trong những người có học (Dao 1951: 254, Dương 1968: 81, Defrancis 1977: 14). Theo Jamieson (1993: 11), bắt đầu vào cuối thế kỷ mười lăm, Nho giáo đã trở thành một ảnh hưởng lớn, chi phối xã hội Việt Nam. Từ quan điểm này, Jamieson (1993: 16-17) cho rằng, trước hết, trẻ em Việt Nam được giảng dạy lòng hiếu thảo (Hiếu), vâng lời và kính trọng cha mẹ, không chỉ trong hành vi, mà còn trong ngôn ngữ.

Trọng tâm của Nho giáo là dạy về sự áp dụng cho đúng danh vị của đối tượng bằng phương tiện ngôn ngữ. Theo đó, mỗi người cần chọn những từ thích hợp để làm hài lòng, thuyết phục hoặc ảnh hưởng đến người khác (Vũ 1997: 58). Những gì Khổng Tử gọi là "chính danh" cũng theo ý niệm nầy, chủ yếu có tác dụng đạo đức để các cá nhân duy trì một trật tự xã hội tốt (Lương 1988: 241). Theo Khổng Tử thì một trật tự xã hội tốt có nghĩa là duy tất cả các tầng lớp xã hội đúng theo vị trí thích hợp của họ (Feibleman 1976: 95).

Theo ông Nguyễn Xuân Thu (1986: 67) thì những người có học thức cao thì được đánh giá cao trong xã hội Việt Nam. Trong quá khứ có nhiều học giả từng là các nhà lãnh đạo trong xã hội, là động lực phát triển xã hội và tấm gương luân lý để mọi người noi theo. Các phân tầng xã hội cũ được xếp theo thứ tự giá trị từ cao: sĩ, nông, công, thương, và sự đáng giá như vậy vẫn còn ăn sâu trong tâm trí của nhiều người Việt Nam, đặc biệt là những người trong thế hệ cũ, tức những người lớn tuổi. Tuy nhiên, mặc dù "sĩ" đứng ở vị trí đầu tiên trong phân tầng xã hội, trong giáo dục truyền thống Việt Nam, "lễ" vẫn được xếp ưu tiên thứ nhất. Như vậy, trước khi được xếp hàng "sĩ", hay "học giả", người ta phải được giáo dục tốt về "lễ", với trọng tâm có thể được liên kết với lịch sự, một đặc tính văn hóa được nhiều người quí trọng.

Từ một góc độ khác, Wangdao (1997: 75) cho rằng một trong những ưu điểm lớn của Khổng Tử là "phép tắc" (một thuật ngữ thay thế cho "nghi lễ" hoặc "lễ" bằng tiếng Việt) được áp dụng trong các nghi thức nhằm hướng dẫn và hạn chế trong mối quan hệ giữa những người trong gia đình và xã hội, thí dụ như quan hệ giữa hoàng tử và các bộ trưởng, giữa người cha và con cái, và sự minh định thứ bậc giai cấp như vậy là nhằm bảo đảm trật tự và ổn định xã hội.

Theo truyền thống, trong xã hội có thứ bậc của Việt Nam, sự diễn tả lòng biết ơn hay sự xin lỗi thường không được thể hiện qua lời nói như "cảm ơn" hay "Tôi xin lỗi", nhưng nó được thể hiện qua hành vi phi ngôn ngữ (ví dụ như sự im lặng hoặc một nụ cười). Người trong một địa vị xã hội cao hơn, chẳng hạn như cha mẹ và giáo viên, thường không trực tiếp nói ra lời cảm ơn với người ở cấp thấp hơn họ (như trẻ em hoặc học sinh) để tỏ lòng biết ơn về một việc nhỏ, chẳng hạn như đóng cửa sổ hoặc đưa hộ một cuốn sách (Huỳnh 1987: 30). Vì vậy, khi trong văn hóa Âu Tây, việc sử dụng các cụm từ "xin vui lòng" và "cảm ơn" được coi là qui ước thực dụng xã hội, thích hợp với ngôn ngữ lịch sự trong các tình huống khác nhau. Trong văn hóa Việt Nam, bài tỏ "cảm ơn" với thân trong gia đình khi được giúp một công việc thường lệ nào đó có thể được coi là hành vi xúc phạm (Yates 2004: 5). Điều này là bởi vì nó mâu thuẫn với đức hạnh trong học thuyết Nho giáo trong năm mối quan hệ con người (Ngũ Luận), trong đó phân bổ một vai trò cho từng thành viên trong gia đình (Marr 1981: 58). Những mối quan hệ tạo thành năm quy tắc đạo đức, cụ thể là "thứ dân trung thành với nhà vua, trẻ em vâng lời và hiếu thảo với cha mẹ, vợ phụng sự cho chồng, người trẻ thì vâng lời người lớn tuổi hơn, còn bạn bè thì trung thành với nhau (Phạm 2008: 103). Theo đó, hành vi ngôn ngữ lịch sự xuất phát và gắn liền từ văn hóa Việt Nam, và như vậy, ngôn ngữ lịch sự được xác định bởi văn hóa (Holmes 1992: 285). Điều còn giải thích một phần nào rằng trong nền văn hóa Nho giáo Châu Á hay Việt Nam nói riêng, sử dụng quá nhiều lời cảm ơn và xin lỗi thường tạo ra cảm giác khó chịu đối với người nghe (Phạm 2008: 78).

Tóm lại, trọng tâm của văn hóa Nho giáo Việt Nam là những ý niệm chính danh qua ngôn ngữ để xác nhận vị trí của một cá nhân trong xã hội và gia đình nhằm để làm xin vui lòng và thuyết phục hoặc gây ảnh hưởng đến người khác. Cần nói thêm, ý niệm chính danh khuyến khích mọi người hành xử thích hợp với vai trò hay vị thế của họ theo từng thời điểm và tình huống liên hệ. Điều nầy rất cần thiết để không gây ra xung đột với người khác, nhưng không dễ dàng áp dụng bởi vì người ta thường hay lầm lẫn vai trò và trách nhiệm của mình trong từng thời điểm và tình huống; thí dụ một người đàn ông có thể là cha, là anh, là em, là bạn, là thầy hay là học trò v.v.

(Những bài kế tiếp tôi sẽ trình bày về Ngôn Ngữ Việt Nam)

Tài liệu tham khảo

Dao, Duy Anh (1951). Việt Nam Văn Hoá Sử Cương. (Vietnamese History). Bon Phuong. Saigon.

DeFrancis, John (1977). Colonialism and Language Policy in Viet Nam. The Hague. Paris. New York: Mouton Publishers. .

Duiker, William J. (1995). Vietnam: Revolution in Transition. Boulder. San Francisco. Oxford: Westview Press.

Duong, Quang Ham (1968). Việt Nam Văn Học Sử Yếu [Vietnamese Literary Brief History], 10th edition, Trung Tam Hoc Lieu (in Vietnamese). Dai Nam Publisher, California. USA.

Feibleman, J. K. (1976). Understanding Oriental Philosophy: A Popular Account for the Western World. New York: Horizon Press.

Holmes, Janet (1992). An Introduction to Sociolinguistics. New York: Longman (1992). An Introduction to Sociolinguistics. New York: Longman.

Huynh, Dinh Te (1987). Vietnamese Culture. California State Department of Education

Jamieson, N. (1993). Understanding Vietnam. University of California Press.

Luong, Hy V. (1988). Discursive Practices and Power Structure: Person-Referring Forms and Sociopolitical Struggles in Colonial Vietnam. In American Ethnologist, Vol. 15, No. 2 (May, 1988), pp. 239-253.

Marr, D. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. University of California Press. Berkeley. Los Angeless. London.

Mey, Jacob L. (2004). Between Culture and Pragmatics: Scylla and Charybdis? The Precarious Condition of Intercultural Pragmatics. Intercultural Pragmatics 1, 1; 27–48

Nguyen Dang Liem (1987). Cross-Cultural Adjustment of the Vietnamese in the United States. In Truong Buu Lam (ed.), Borrowings and Adaptions in Vietnamese Culture. University of Hawaii. Honolulu. Hawaii, pp.100-114

Nguyen Xuan Thu (1986). Vietnamese Refugees in Australia: Some Tentative Answers. In Nguyen Xuan Thu and Desmond Cahill (eds.) Understanding Vietnamese Refugee in Australia. School of Community Studies, Phillip Institute of Technology. Australia. pp. 67-83.

Nguyen, Duc Hoat (1995). Politeness markers in Vietnamese Requests (manuscript). Thesis (PhD). Monash University, Department of Asian Language and Studies.

Nguyen, Ngoc Tuan (2008). Socialist Realism in Vietnamese Literature: An Analysis of the relationship between literature and politics. VMD Verlag Dr. Muller Aktiengesellschaft & Co. KG. Saarbrücken, Germany.

Pham, Thi Hong Nhung (2008). Vietnamese Politeness in Vietnamese - Anglo-Cultural Intactions: A Confucian Perspective. A thesis submitted for the degree of Doctor of Philosophy at The University of Quensland in Ausgust, 2008.

Vu Thi Thanh Huong (1997). Politeness in Modern Vietnamese: A Sociolinguistic Study of a Hanoi Speech Community. (PhD Thesis) Department of Anthropology, University of Toronto.

Wangdao, D. (1997). Understanding Confucius. Beijing: Chinese Literature Press.

Yates, Lynda (2004). The ‘secret rules of language’:Tackling Pragmatics in the Classroom. Prospect Vol. 19, No. 1 (April 2004)
Phụ Đính:
Luận án Tiến Sĩ Lê Thiện Phúc, lưu trữ tại Australian National University

Title:  Variation in linguistic politeness in Vietnamese: a study of transnational context
Author(s):  Le, Phuc Thien
Publisher:  Asia-Pacific Linguistics (SEAMLES)
Description:  This work is a revised PhD dissertation comparing Politeness in Vietnamese spoken in Vietnam and Australia, hence the “transnational context”. The study uses naturalistic speech data recorded in everyday public contexts, including shops and markets, where the Vietnamese vernacular. The data corpus for each national context are more than 1000 turns at talk, and was transcribed and analysed in relation to four independent variables: national context, gender, role and generation. Through the data analysis, 21 categories of politeness marker are identified, defined and discussed in conjunction with general linguistic politeness theory concerning the interlocutor's “face wants” and two concepts of politeness in Vietnamese: (1) strategic politeness (lịch sự) and (2) respectful politeness (lễ phép). The main findings emerging from the analysis are that Vietnamese living in Australia are more linguistically polite than those living in Vietnam, using significantly more politeness markers (7 of 10) across 21 categories. Further in-depth exploration reveals how the usage of specific categories of marker is similar and different across the national contexts, and possible explanations for these differences in relation to intercultural contact and socio-political change are presented.
Citation:  Le, P. T. (2013). Variation in linguistic politeness in Vietnamese: A study of transnational context. Asia-Pacific Linguistics Open Access Monographs, A-PL 007; SEAsian Mainland Languages E-Series, SEAMLES 006. Canberra, ACT: Asia-Pacific Linguistics (SEAMLES)
Type:  Book
URI:  http://hdl.handle.net/1885/10093
ISBN:  9781922185068
Appears in Collections: Open Access Research


Files in This Item:

FileDescriptionSizeFormat
Le_VariationLinguistic2013.pdf 2.32 MB Adobe PDF Thumbnail
View/Open

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
24 Tháng Mười Một 2012(Xem: 11082)
Tôi đã trở lại với anh em, với bạn bè. Nhưng đành phải vĩnh viễn từ giã chiếc phi cơ thân yêu mang số đuôi 526 - chiếc phi cơ đã gắn bó với chúng tôi trong bao phi vụ hành quân
20 Tháng Mười Một 2012(Xem: 11428)
Nghi lễ Thanksgiving được tổ chức lần đầu tại miền Bắc nước Mỹ, năm 1578, khi nhà thám hiểm Martin Frobisher đến tân Thế giới.
19 Tháng Mười Một 2012(Xem: 12259)
Thực đúng như vậy, chúng ta đã sinh ra đời trên quê hương không hề có sự lựa chọn nhưng nếu phải trả giá với sự sống chết thì chúng ta vẫn có cơ may lựa chọn nơi sinh sống.
18 Tháng Mười Một 2012(Xem: 12029)
Và tôi cũng tin rằng ở một nơi chốn bình yên nào đó, chắc chắn hồn anh cũng mãi nhớ đến những cánh chim cùng bầy ngày nào, giờ đang tan tác khắp bốn phương trời cách biệt.
18 Tháng Mười Một 2012(Xem: 10650)
Hãy hưng phấn lên anh em ơi, gánh núi nặng trên vai người chiến sĩ quốc gia sắp đến chỗ đỗ rồi, lá cộng sản đã quá vàng khô, nó PHẢI RỤNG vì không thể không rụng./.
17 Tháng Mười Một 2012(Xem: 10234)
Một khi Trung cộng sụp đổ thì cộng sản An nam hết chỗ dựa cũng tiêu tùng. Huống chi tuổi trẻ Việt Nam hiện nay đã lấy lại tính chất ngạo nghễ truyền thống như kể trên thì ngày tàn của bạo chúa 14 tên ở cung Ba Đình đã gần kề.
17 Tháng Mười Một 2012(Xem: 12146)
Với mục đích giới thiệu về ngôi trường trung học Ngô Quyền Biên Hòa yêu dấu năm xưa, KTS. Nguyễn Mạnh Dũng – CHS.NQBH khóa 13 – đã có ý tưởng tái hiện lại chiếc cổng trường Ngô Quyền trong khuôn viên Một Thuở
16 Tháng Mười Một 2012(Xem: 14765)
chỉ hy vọng một ngày nào đó tôi viết một cuốn hồi ký, họa may mới dàn trải được số phận của bài thơ Kỷ Vật Cho em.
13 Tháng Mười Một 2012(Xem: 11029)
Truyền thống, tình tự dân tộc Việt Nam trải dài lịch sử bốn ngàn năm, có sá gì 70 năm nhiễm nọc độc duy vật vô thần, vô tổ quốc cộng sản.
11 Tháng Mười Một 2012(Xem: 11920)
NHỮNG HÌNH ẢNH NẦY PHẢI ĐƯỢC MỌI NGƯỜI TRUYỀN TẢI ĐẾN THẾ HỆ TRẺ HÔM NAY VÀ MAI SAU , TRONG CŨNG NHƯ NGOÀI NƯỚC .
09 Tháng Mười Một 2012(Xem: 11070)
Mai nầy con giao long ấy, trước vận nước ngã nghiêng, trước thái độ nhu nhược, ươn hèn của bè đảng csvn trước giặc Tàu xâm lược, giựt mình tỉnh thức, sẽ vùng dậy vươn vuốt sắc, vì dân khử bạo:
08 Tháng Mười Một 2012(Xem: 18408)
Vậy mà chẳng còn bao lâu nữa là tròn 36 năm chúng ta cư ngụ tại nơi này. Mới ngày nao bỡ ngỡ đến đây, nay nhớ lại đã là câu chuyện của ngày xưa với bao nhiêu quên-nhớ, ngậm ngùi.
07 Tháng Mười Một 2012(Xem: 14753)
Cộng Sản Việt Nam vẫn ngoan cố như tự bao giờ, trước sau như một. Địa vị của Đảng vẫn phải được củng cố vững mạnh hơn bao giờ hết bằng lưỡi lê và họng súng.
06 Tháng Mười Một 2012(Xem: 11116)
Cố Miên vương Shihanouk, dù cách nào, ông vẫn được toàn dân Miên kính mến như "cha già của dân tộc Kampuchia".
06 Tháng Mười Một 2012(Xem: 12055)
Thời gian trôi qua, những đặc quyền dành cho tổng thống ngày càng nhiều hơn. Mặc dù một số đặc quyền gây tranh cãi song nhìn chungngười Mỹ dường như chấp nhận cách đối xử đặc biệt này.
06 Tháng Mười Một 2012(Xem: 17573)
Thế hệ trẻ còn một con đường dài ở phía trước. Vẫn còn đó con đường mà Cụ Phan Chu Trinh còn đang bỏ ngỏ nhưng rất sáng giá và tỏ ra có ưu thế trong tình hình nước ta hiện nay.
05 Tháng Mười Một 2012(Xem: 11890)
Người dân đã quá mệt mỏi với bao vấn đề về cơm áo gạo tiền giờ đến lượt của để dành cũng bị các ông làm cho khốn đốn. Làm dân Việt Nam sao mà khổ thế còn làm quan ở ta thì sướng không gì bằng
03 Tháng Mười Một 2012(Xem: 10620)
Một phút trước là nô lệ, một phút sau là con người của tự do. Nếu hỏi một người dân thiểu số, cái gì quý nhất: Muối. Nếu hỏi một người Hà Nôi, lúc này đây, cái gì quí nhất: tự do.
01 Tháng Mười Một 2012(Xem: 10272)
Ngày nay, sự thể tỏ rõ đúng y như vậy: Giai cấp nông dân sẽ tiến hành cuộc cách mạng tư sản nhân quyền, là người đào mồ chôn chế độ cộng sản phi nhân
30 Tháng Mười 2012(Xem: 11163)
Vận mệnh Đất Nước là ở trong tay các bạn. Hãy hành xử đúng tư cách là NGƯỜI CHỦ. Với Tâm Niệm theo Truyền thống DIÊN HỒNG - VÌ DÂN LIỀU THÂN
30 Tháng Mười 2012(Xem: 32244)
Kể từ đó, khi Ấp Chiến Lược bị phá bỏ, thì quê tôi, quận Tiên Phước gồm 15 xã, mà việt cộng đã chiếm hết 11 xã, chỉ còn có 4 xã nằm chung quanh quận lỵ, mà chẳng có xã nào còn nguyên vẹn
30 Tháng Mười 2012(Xem: 10624)
Hãy vững tâm, bền chí Việt Khang Em sẽ ra tù trước hạn VẼ VANG Bọn phản quốc sắp đến ngày đền tội Hẹn em ngày về VINH QUANG
29 Tháng Mười 2012(Xem: 10284)
Hổng chịu ăn học tử tế Theo cọng sản làm phản Bán nước hại dân tan nát Bây giờ vô liêm sỉ lòn trôn
26 Tháng Mười 2012(Xem: 10117)
Ở bài này, tôi đã chứng minh cuộc chiến tranh từ du kích đến quy mô lớn ở Việt Nam là do ông Hồ và đảng cộng sản gây ra. Đây là cuộc chiến tranh phi nghĩa không phải theo lý do “giải phóng” dân tộc.
25 Tháng Mười 2012(Xem: 11432)
Ai ra xứ Huế thì ra Ai về là về núi Ngự Ai về là về sông Hương Nước sông Hương còn thương chưa cạn
24 Tháng Mười 2012(Xem: 12826)
Tại sao ông Hồ và đảng cộng sản lừa dối không công khai bức thư? Tại sao ông đi kiếm ăn lại nói dối “Tìm đường cứu nước”? Đó chính là sự lừa dối không thể chấp nhận được.
24 Tháng Mười 2012(Xem: 10507)
Qua bài này tôi đã chứng minh một sự thật là ông Đồng và ông Hồ đã thông qua công hàm 1958 để bán tổ quốc Việt Nam cho Trung Cộng. Vai trò của ông Hồ là hết sức rõ rệt trong sự kiện này
23 Tháng Mười 2012(Xem: 10028)
Thân là lãnh đạo quốc gia, chúng hành xử thua đồ con nít. Theo truyền thống Việt Nam, mỗi khi trẻ em phạm lỗi, mẹ bắt cúi xuống đánh đòn, răn dạy.
21 Tháng Mười 2012(Xem: 10094)
Bản báo cáo dài 52 trang của Ủy ban Tình báo Hạ viện Mỹ đề cập đến việc một số công ty Mỹ sử dụng thiết bị của Hoa Vi và Trung Hưng đã gặp những trường hợp “kỳ lạ” và “đáng báo động”
21 Tháng Mười 2012(Xem: 9749)
Người nghệ sĩ lăn lóc gió sương. Tơ đàn say đắm quên sầu thương. Dành tình này cho kẻ khổ đau. Quên tình xưa thôn nữ chờ mong.”
18 Tháng Mười 2012(Xem: 11607)
Dù xa QUÊ HƯƠNG tôi vẩn không bao giờ quên được Sài Gòn với những chiếc xe thổ mộ kết nối tình duyên của song thân ..với những gánh hàng rong khắp nẽo đường
18 Tháng Mười 2012(Xem: 10476)
Dân Làm Báo có câu khẩu hiệu: Mỗi người là một chiến sĩ thông tin. Trên mặt trận vận động cách mạng giải trừ độc tài toàn trị cộng sản, xin nêu lên khẩu hiệu: MỖI NGƯỜI LÀ MỘT CHIẾN SĨ DÂN VẬN.
16 Tháng Mười 2012(Xem: 15095)
Chỉ xem có một lần nên không biết có chiếu nhiều lần hay không, nếu có thì tôi đã bỏ lỡ cơ hội rất tốt vì căn cứ theo phim đã xem thì nơi này chọn lựa phim rất hay.
13 Tháng Mười 2012(Xem: 12588)
Hội nghị Diên Hồng được xem như hội nghị dân chủ đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Các phụ lão có thể coi là những đại biểu của dân. Sau hội nghị, chính các phụ lão là những người truyền đạt lại chủ trương của chính quyền đến người dân.
12 Tháng Mười 2012(Xem: 10473)
Sự thay thế nó và toàn bộ tổ chức và cơ chế của nó là điều không dễ, vì nó đã bám rễ khá sâu vào con người Việt Nam. Nhưng vì tương lai của dân tộc và nhất là để tránh họa bị đồng hóa, người Việt Nam không có con đường nào khác là: giải thể nó và hướng đi ra biển bắt tay với cộng đồng thế giới.
11 Tháng Mười 2012(Xem: 10609)
Vừa đem mồi Hòa hợp, Hòa giải dụ khị cả ba bề, bốn bên vừa đánh lạc hướng công luận về “ Cái nồi súp de tranh ăn của bọn trùm đảng” đang sôi sùng sục, sắp nổ bùng ngay trước lăng vệ sinh già hồ Ba Đình.
10 Tháng Mười 2012(Xem: 11001)
Lord hold our troops in your loving hands. Protect them as they protect us. Bless them & their families for the selfless acts they perform for us in our time of need. In Jesus name,
09 Tháng Mười 2012(Xem: 10711)
Dân tộc Việt Nam, trải qua bốn ngàn năm lịch sử, chưa có thời kỳ nào hèn yếu như hiện nay, chỉ vì bọn cọng sản tàn ngược quá lẽ. Tuổi trẻ ngạo khí tiêu trầm.
09 Tháng Mười 2012(Xem: 12051)
Tôi nghĩ mọi người ở Hoa Kỳ phải nên đọc bài này,nhưng vì ACLU *nên không có cách nào để việc này được phổ biến rộng rãi trừ phi mỗi chúng ta tiếp tay phát tán ra.
07 Tháng Mười 2012(Xem: 10648)
Nhật Bản mua của Hoa Kỳ 42 chiến đấu cơ F-35 Lightning II A/B. Loại F-35B cất và hạ cánh thẳng đứng có thể trang bị cho 4 tàu đổ bộ trực thăng cải tiến từ các tuần dương hạm. Máy bay Kawasaki C-2 có khoảng 50 chiếc là loại tấn công mặt đất và ném bom chiến thuật.
06 Tháng Mười 2012(Xem: 10380)
Gương mặt bức tượng nổi tiếng nhất nước Mỹ được lấy nguyên mẫu từ mẹ của tác giả thiết kế bức tượng. Trong mắt những người nhập cư đến “xứ sở cờ hoa” – vùng đất hứa của mọi người, bức tượng Nữ thần Tự do là hình ảnh đầu tiên đập vào mắt họ
04 Tháng Mười 2012(Xem: 24337)
Ước mong hàng thức giả trong, ngoài nước dõng mãnh đứng lên vì Đại Nghĩa Dân Tộc dẫn dắt toàn dân tiến bước, dứt trừ hoạn họa cộng sản tham tàn
04 Tháng Mười 2012(Xem: 10663)
Giờ đây chiến cuộc đã tàn phai. Nhiều anh em y sĩ Hải Quân đã trở về trong lòng đất lạnh. Hồi tưởng lại buổi thiếu thời, sau khi đã nếm mùi biển động của Đại Tây Dương
04 Tháng Mười 2012(Xem: 9542)
Em tôi hỡi ! Cớ sao em cười? Đừng đùa với mối tình đầu tiên Cho tan vỡ những câu tâm tình Mà mình đã dối lòng mình yêu...”
03 Tháng Mười 2012(Xem: 10128)
Von Braun tin tưởng vào trật tự của Vũ Trụ và cho rằng con người sẽ tới được các thế giới tuy xa xôi nhưng không kém phần đẹp đẽ và huyền bí
02 Tháng Mười 2012(Xem: 9965)
Khi mặt trời vừa khuất bóng, tiếng còi trên đài chỉ huy vang lên để cử hành lễ hạ kỳ. Mọi người đứng nghiêm chào lá quốc kỳ đang hạ xuống, sau đó chiến hạm bật đèn hải hành. Lúc đó các chiến hạm bạn đang tiến đến gần,
02 Tháng Mười 2012(Xem: 11519)
Dù sao thì trên 30 chiến hạm của HQVNCH di tản trước đây đã làm tròn nhiệm vụ ngăn chận giặc thù việt cộng và tàu cộng, giữ yên lòng biển Mẹ trong cuộc chiến đấu bảo vệ miền Nam Việt Nam
02 Tháng Mười 2012(Xem: 10784)
Bộ ảnh sau đây là những tác phẩm tuyệt vời về tranh thêu…Trong đó ta sẽ cảm nhận được hương vị của mùa xuân, của truyền thống dân tộc Việt về tranh thêu…
02 Tháng Mười 2012(Xem: 10456)
Chỉ những ai có duyên phận mới trở thành người thân của nhau, cho dù trong cuộc sống bận rộn bạn ít khi gặp mọi người, nhưng bạn hãy trân trọng từng khoảnh khắc khi còn bên họ, hãy dành cho họ thời gian để yêu thương bạn hơn.