6:59 CH
Thứ Ba
30
Tháng Tư
2024

MỘT VÀI NÉT VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM - TS Lê Thiện Phúc

29 Tháng Tám 201411:58 SA(Xem: 9632)


Một vài nét về văn hóa Việt Nam

Ts. Lê Thiện Phúc

(Ngôn ngữ học)

Mặc dù "văn hóa" là ý niệm rất trừu tượng mặc dù hàng ngày chúng ta vẫn thường đề cặp tới trong sinh hoạt đời sống cũng như trong các lãnh vực văn học nghệ thuật.

Sau năm 1975, ở Việt Nam không hiếm xảy ra những lạm dụng cụm từ "văn hóa" trong nhiều tình huống chẳng hạn như "gia đình văn hóa" hay "lời nói thiếu văn hóa", nhưng ít ai để ý tới cái ý nghĩa của "văn hóa" là gì cả!

Văn hóa, theo định nghĩa của một từ ngữ tương đương trong tiếng Anh "culture" là một tổng hợp đặc tính của một nhóm người nào đó trong xã hội. Theo một nghiên cứu khoa học, văn hóa được ăn sâu trong mỗi cá nhân (Mey 2004: 32); nhưng nó thường được bàn thảo như là thực thể dựa theo sự hiểu biết chung của một xã hội, quốc gia hay dân tộc, chẳng hạn như văn hóa Trung Quốc, văn hóa Nhật Bản hay văn hóa Việt Nam. Nói khác đi, khi nói đến văn hóa Việt Nam là người ta nói đến những đặc thù của người Việt. Tuy nhiên những đặc thù nầy có được sự chấp nhận hay không là do quan niệm của những người liên hệ trong cuộc, hay tùy theo cấp độ ý nghĩa muốn được áp dụng.

Thí dụ, trong một nghiên cứu về ngôn ngữ xã hội, văn hóa Việt Nam được phân biệt xa hơn đó là nền văn hóa dựa trên nền tảng Nho giáo và văn hóa theo định hướng chủ nghĩa Cộng sản (Nguyen 2008: 275). Nếu văn hóa Việt Nam được áp dụng hay định nghĩa dựa theo định hướng chủ nghĩa Cộng sản thì một trong những nét đặc thù của văn hóa Việt Nam là lá cờ đỏ ngôi sao vàng, là "nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý và đảng lãnh đạo". Liệu cộng đồng người Việt tỵ nạn hải ngoại có chấp nhận những nét văn hóa Việt Nam như vậy hay không là một chuyện khác! Chính vì vậy mà khi người Việt hải ngoại về Việt Nam thăm thân nhân không tránh khỏi bỡ ngỡ, lúng túng trước những bảng hiệu "gia đình văn hóa", "nhà văn hóa" hay "trung tâm văn hóa". Người Việt hải ngoại lúng túng trước các bảng hiệu như vậy là điều tất nhiên, bởi vì họ đâu có biết gì về văn hóa Việt Nam theo định hướng chủ nghĩa Cộng sản!

Như vậy cái ý nghĩa đích thực của văn hóa Việt Nam là gì?

Muốn quán triệt cái ý nghĩa đích thực của văn hóa Việt Nam là gì thì ta nên tách rời mọi ý niệm hay thành kiến chính trị để quay về nguồn gốc văn hóa Việt Nam dựa trên tinh thần nhân bản tự nhiên chứ không phải bị áp chế bởi bất cứ hình thức chính trị nào. Lẽ tất nhiên muốn được độc lập trong tư duy hay cách suy nghĩ của mình thì người suy nghĩ phải được sống trong một môi trường tự do, nơi đó nhân quyền được triệt để tôn trọng.

Dù sao, văn hóa Việt Nam có thể nói là đã gắn liền với tư tưởng nho giáo từ hơn một ngàn năm lịch sử của dân tộc. Như vậy, trong bài viết nầy khi bàn về văn hóa Việt Nam tôi căn cứ vào tư tưởng nho giáo, bởi vì đây chỉ là một bài viết ngắn, không có tầm vóc nghiên cứu sâu xa trước một ngàn năm lịch sử dân tộc Việt Nam của chúng ta.

Do đó, khi bàn về văn hóa Việt Nam chúng ta không thể không nhắc đến năm ý niệm Nhân, Lễ Nghĩa, Trí, Tín, mà theo nho giáo thì được gọi là "Ngũ Thường". Nó chính là năm yếu tố luân lý căn bản để trở thành nhân cách một con người. Nói khác đi, người có nhân cách phải có đủ năm yếu tố: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.

Nhân là cách đối nhân xử thế, là tấm lòng yêu thương con người, yêu quê hương đất nước, là thái độ biết gắn cái riêng của mình vào cái chung của xã hội, với sự ràng buộc giữa người và người, bằng những mối liên quan gắn kết với nhau. Nó còn được gọi chung là luân thường đạo lý: Vua – tôi, cha – con, vợ - chồng, anh – em và bằng hữu.

Lễ là nghi thức thể hiện qua cách hành xử, ứng xử hợp lòng người trong cuộc sống; qua đó, xã hội hay người khác đánh giá sự hiểu biết của một cá nhân. Chữ lễ vì vậy là lễ phép, đức độ kính trên nhường dưới trong đạo vua – tôi, cha – con, vợ - chồng, anh – em. Nó còn thể hiện qua những hình thức lễ nghi theo các truyền thống để rồi trở thành một nét văn hóa của dân tộc.

Nghĩa thể hiện vai trò, trách nhiệm của con người với con người, giữa người với đời, với xã hội. Cũng chính vì vậy mà ở đời trong thời nào cũng cần có nghĩa, hay có trách nhiệm với quê hương đất nước, với gia đình dòng họ, ông bà cha mẹ, vợ con, anh em bằng hữu. Biết ơn khi mình đã nhận được những điều may mắn trong cuộc sống. Nhiều người biết quan tâm giúp đỡ mọi người trong xã hội, làm từ thiện, chính là để tỏ lòng tri ân với đời. Nghĩa cũng là biết sống cho mọi người chứ không chỉ sống cho riêng cá nhân mình.

Tuy nhiên, nếu muốn làm được việc nghĩa thì phải có trí, phải có một sự hiểu biết căn bản: Biết khi nào cho, cho như thế nào. Có nhân, có nghĩa mà không có trí thì nhiều khi cái nghĩa cử cao đẹp của mình trở thành vô nghĩa; cái hành động đạo đức của mình có thể trở thành vô đạo đức; bởi vì vô hình chung ta lại đi tiếp giáo cho giặc, và rốt cuộc ta gây ra thảm họa cho nhiều người hiền lương vô tội. Tóm lại, trí là một sự hiểu biết, người không trí tức là không có sự hiểu biết thì không làm được gì hữu ích cả. Ngày xưa đánh giá chữ trí của một con người qua sự hiểu biết về đạo quân tử; ngày nay, ngoài sự hiểu biết về lĩnh vực văn hóa xã hội, triết học thì cần có một sự hiểu biết về khoa học tự nhiên cần thiết cho cuộc sống hiện đại. Hiểu biết nhiều có thể làm được nhiều việc có ích với đời nếu người đó có nhân, có nghĩa trong tâm.

Có có đủ bốn yếu tố: nhân, lễ, nghĩa, trí, mà không có tín thì cũng chưa vẹn toàn. Một người không có uy tín hay không có lòng tin đối với người khác thì cũng chẳng được ai tôn trọng. Chữ tín trong cuộc sống hàng ngày rất quan trọng, bởi vì sống ở đời ai cũng cần có một uy tín nhất định trong quan hệ với mọi người xung quanh. Có được uy tín với bạn bè, với người chung quanh thì sẽ tạo được sự tin tưởng của họ, và nhờ đó sẽ dễ dàng được họ giúp đỡ, hỗ trợ trong cuộc sống. Uy tín là giữ lời hứa - nói thì phải làm.

Có được nhân, lễ, nghĩa, trí, tín chính là có được năm yếu tố kết hợp thành nhân cách của con người để có được sự hài hòa trong mối quan hệ giữa các cá nhân trong xã hội, hay trong gia đình.

Theo truyền thống Việt Nam thì đơn vị cơ bản của xã hội là gia đình chứ không phải là cá nhân. Do đó, sự hài hòa trong mối quan hệ giữa các cá nhân được đánh giá cao hơn thành tích cá nhân (Phạm 2008: 79). Vẻ đẹp thể chất và dáng điệu bề ngoài được coi là quan trọng đối với cả nam giới và phụ nữ, nhưng đức hạnh của người phụ nữ luôn luôn được ca ngợi. Hiếu nghĩa, tình huynh đệ, và lòng trung thành vợ chồng cũng được đánh giá cao. Người Việt Nam có khuynh hướng nội tâm. Đức hạnh của một người thường được giữ kín trong lòng; do đó sự mong muốn của họ được thể hiện gián tiếp bằng cách nói gợi ý, vòng vo, và họ suy nghĩ cẩn thận trước khi nói (Nguyễn 1987: 103).

Các khái niệm về gia đình, sự hòa hợp, đạo đức, hiếu nghĩa, tình huynh đệ, và lòng trung thành vợ chồng được ăn sâu trong văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam. Hầu hết các giá trị văn hóa cho thấy Nho giáo có mặt trong xã hội Việt Nam từ hàng ngàn năm (Marr 1981: 101-135; Duiker 1995: 81). Văn hóa Việt Nam đã bị ảnh hưởng chủ yếu của Trung Quốc trong nhiều thế kỷ vì sự gần gũi về địa lý và liên lạc phát sinh từ xung đột chính trị và kinh tế (Nguyễn 1995: 56). Theo ông Dương Quảng Hàm (1968: 1) thì xã hội Việt Nam đã trải qua sự thống trị của Trung Quốc trong hơn một ngàn năm, giữa 207 TCN và 939 AD.

Trước khi giành được độc lập vào năm 939 AD, người dân Việt Nam đã bị ảnh hưởng sâu sắc của Trung Quốc trong mọi khía cạnh của cuộc sống từ thời gian đó. Ví dụ, trong giáo dục, người Việt Nam đã học chữ Trung Quốc, theo lời dạy của Khổng Tử và thông qua tư tưởng và văn hóa Trung Quốc. Trong gần một ngàn năm độc lập đến cuối thế kỷ XIX, qua nhiều vương quốc trong đó có Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê và Nguyễn, ký tự Trung Quốc vẫn còn được sử dụng bởi tất cả các tổ chức chính phủ (Dương 1968,1-2). Khi hệ thống giáo dục Việt Nam chủ yếu dựa vào Nho giáo, hệ thống chữ viết Trung Quốc được dùng để giảng dạy và dần dần được biết đến như chữ nho (kịch bản Nho giáo), và các học giả trong Nho giáo được gọi là Nhà nho hoặc Thầy nho (giáo viên Nho giáo).

Sự ảnh hưởng của Nho giáo đã đạt đỉnh cao trong xã hội Việt Nam vào năm 1075, khi vua Lý Nhân Tôn tuyển dụng viên chức trong những người có học (Dao 1951: 254, Dương 1968: 81, Defrancis 1977: 14). Theo Jamieson (1993: 11), bắt đầu vào cuối thế kỷ mười lăm, Nho giáo đã trở thành một ảnh hưởng lớn, chi phối xã hội Việt Nam. Từ quan điểm này, Jamieson (1993: 16-17) cho rằng, trước hết, trẻ em Việt Nam được giảng dạy lòng hiếu thảo (Hiếu), vâng lời và kính trọng cha mẹ, không chỉ trong hành vi, mà còn trong ngôn ngữ.

Trọng tâm của Nho giáo là dạy về sự áp dụng cho đúng danh vị của đối tượng bằng phương tiện ngôn ngữ. Theo đó, mỗi người cần chọn những từ thích hợp để làm hài lòng, thuyết phục hoặc ảnh hưởng đến người khác (Vũ 1997: 58). Những gì Khổng Tử gọi là "chính danh" cũng theo ý niệm nầy, chủ yếu có tác dụng đạo đức để các cá nhân duy trì một trật tự xã hội tốt (Lương 1988: 241). Theo Khổng Tử thì một trật tự xã hội tốt có nghĩa là duy tất cả các tầng lớp xã hội đúng theo vị trí thích hợp của họ (Feibleman 1976: 95).

Theo ông Nguyễn Xuân Thu (1986: 67) thì những người có học thức cao thì được đánh giá cao trong xã hội Việt Nam. Trong quá khứ có nhiều học giả từng là các nhà lãnh đạo trong xã hội, là động lực phát triển xã hội và tấm gương luân lý để mọi người noi theo. Các phân tầng xã hội cũ được xếp theo thứ tự giá trị từ cao: sĩ, nông, công, thương, và sự đáng giá như vậy vẫn còn ăn sâu trong tâm trí của nhiều người Việt Nam, đặc biệt là những người trong thế hệ cũ, tức những người lớn tuổi. Tuy nhiên, mặc dù "sĩ" đứng ở vị trí đầu tiên trong phân tầng xã hội, trong giáo dục truyền thống Việt Nam, "lễ" vẫn được xếp ưu tiên thứ nhất. Như vậy, trước khi được xếp hàng "sĩ", hay "học giả", người ta phải được giáo dục tốt về "lễ", với trọng tâm có thể được liên kết với lịch sự, một đặc tính văn hóa được nhiều người quí trọng.

Từ một góc độ khác, Wangdao (1997: 75) cho rằng một trong những ưu điểm lớn của Khổng Tử là "phép tắc" (một thuật ngữ thay thế cho "nghi lễ" hoặc "lễ" bằng tiếng Việt) được áp dụng trong các nghi thức nhằm hướng dẫn và hạn chế trong mối quan hệ giữa những người trong gia đình và xã hội, thí dụ như quan hệ giữa hoàng tử và các bộ trưởng, giữa người cha và con cái, và sự minh định thứ bậc giai cấp như vậy là nhằm bảo đảm trật tự và ổn định xã hội.

Theo truyền thống, trong xã hội có thứ bậc của Việt Nam, sự diễn tả lòng biết ơn hay sự xin lỗi thường không được thể hiện qua lời nói như "cảm ơn" hay "Tôi xin lỗi", nhưng nó được thể hiện qua hành vi phi ngôn ngữ (ví dụ như sự im lặng hoặc một nụ cười). Người trong một địa vị xã hội cao hơn, chẳng hạn như cha mẹ và giáo viên, thường không trực tiếp nói ra lời cảm ơn với người ở cấp thấp hơn họ (như trẻ em hoặc học sinh) để tỏ lòng biết ơn về một việc nhỏ, chẳng hạn như đóng cửa sổ hoặc đưa hộ một cuốn sách (Huỳnh 1987: 30). Vì vậy, khi trong văn hóa Âu Tây, việc sử dụng các cụm từ "xin vui lòng" và "cảm ơn" được coi là qui ước thực dụng xã hội, thích hợp với ngôn ngữ lịch sự trong các tình huống khác nhau. Trong văn hóa Việt Nam, bài tỏ "cảm ơn" với thân trong gia đình khi được giúp một công việc thường lệ nào đó có thể được coi là hành vi xúc phạm (Yates 2004: 5). Điều này là bởi vì nó mâu thuẫn với đức hạnh trong học thuyết Nho giáo trong năm mối quan hệ con người (Ngũ Luận), trong đó phân bổ một vai trò cho từng thành viên trong gia đình (Marr 1981: 58). Những mối quan hệ tạo thành năm quy tắc đạo đức, cụ thể là "thứ dân trung thành với nhà vua, trẻ em vâng lời và hiếu thảo với cha mẹ, vợ phụng sự cho chồng, người trẻ thì vâng lời người lớn tuổi hơn, còn bạn bè thì trung thành với nhau (Phạm 2008: 103). Theo đó, hành vi ngôn ngữ lịch sự xuất phát và gắn liền từ văn hóa Việt Nam, và như vậy, ngôn ngữ lịch sự được xác định bởi văn hóa (Holmes 1992: 285). Điều còn giải thích một phần nào rằng trong nền văn hóa Nho giáo Châu Á hay Việt Nam nói riêng, sử dụng quá nhiều lời cảm ơn và xin lỗi thường tạo ra cảm giác khó chịu đối với người nghe (Phạm 2008: 78).

Tóm lại, trọng tâm của văn hóa Nho giáo Việt Nam là những ý niệm chính danh qua ngôn ngữ để xác nhận vị trí của một cá nhân trong xã hội và gia đình nhằm để làm xin vui lòng và thuyết phục hoặc gây ảnh hưởng đến người khác. Cần nói thêm, ý niệm chính danh khuyến khích mọi người hành xử thích hợp với vai trò hay vị thế của họ theo từng thời điểm và tình huống liên hệ. Điều nầy rất cần thiết để không gây ra xung đột với người khác, nhưng không dễ dàng áp dụng bởi vì người ta thường hay lầm lẫn vai trò và trách nhiệm của mình trong từng thời điểm và tình huống; thí dụ một người đàn ông có thể là cha, là anh, là em, là bạn, là thầy hay là học trò v.v.

(Những bài kế tiếp tôi sẽ trình bày về Ngôn Ngữ Việt Nam)

Tài liệu tham khảo

Dao, Duy Anh (1951). Việt Nam Văn Hoá Sử Cương. (Vietnamese History). Bon Phuong. Saigon.

DeFrancis, John (1977). Colonialism and Language Policy in Viet Nam. The Hague. Paris. New York: Mouton Publishers. .

Duiker, William J. (1995). Vietnam: Revolution in Transition. Boulder. San Francisco. Oxford: Westview Press.

Duong, Quang Ham (1968). Việt Nam Văn Học Sử Yếu [Vietnamese Literary Brief History], 10th edition, Trung Tam Hoc Lieu (in Vietnamese). Dai Nam Publisher, California. USA.

Feibleman, J. K. (1976). Understanding Oriental Philosophy: A Popular Account for the Western World. New York: Horizon Press.

Holmes, Janet (1992). An Introduction to Sociolinguistics. New York: Longman (1992). An Introduction to Sociolinguistics. New York: Longman.

Huynh, Dinh Te (1987). Vietnamese Culture. California State Department of Education

Jamieson, N. (1993). Understanding Vietnam. University of California Press.

Luong, Hy V. (1988). Discursive Practices and Power Structure: Person-Referring Forms and Sociopolitical Struggles in Colonial Vietnam. In American Ethnologist, Vol. 15, No. 2 (May, 1988), pp. 239-253.

Marr, D. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. University of California Press. Berkeley. Los Angeless. London.

Mey, Jacob L. (2004). Between Culture and Pragmatics: Scylla and Charybdis? The Precarious Condition of Intercultural Pragmatics. Intercultural Pragmatics 1, 1; 27–48

Nguyen Dang Liem (1987). Cross-Cultural Adjustment of the Vietnamese in the United States. In Truong Buu Lam (ed.), Borrowings and Adaptions in Vietnamese Culture. University of Hawaii. Honolulu. Hawaii, pp.100-114

Nguyen Xuan Thu (1986). Vietnamese Refugees in Australia: Some Tentative Answers. In Nguyen Xuan Thu and Desmond Cahill (eds.) Understanding Vietnamese Refugee in Australia. School of Community Studies, Phillip Institute of Technology. Australia. pp. 67-83.

Nguyen, Duc Hoat (1995). Politeness markers in Vietnamese Requests (manuscript). Thesis (PhD). Monash University, Department of Asian Language and Studies.

Nguyen, Ngoc Tuan (2008). Socialist Realism in Vietnamese Literature: An Analysis of the relationship between literature and politics. VMD Verlag Dr. Muller Aktiengesellschaft & Co. KG. Saarbrücken, Germany.

Pham, Thi Hong Nhung (2008). Vietnamese Politeness in Vietnamese - Anglo-Cultural Intactions: A Confucian Perspective. A thesis submitted for the degree of Doctor of Philosophy at The University of Quensland in Ausgust, 2008.

Vu Thi Thanh Huong (1997). Politeness in Modern Vietnamese: A Sociolinguistic Study of a Hanoi Speech Community. (PhD Thesis) Department of Anthropology, University of Toronto.

Wangdao, D. (1997). Understanding Confucius. Beijing: Chinese Literature Press.

Yates, Lynda (2004). The ‘secret rules of language’:Tackling Pragmatics in the Classroom. Prospect Vol. 19, No. 1 (April 2004)
Phụ Đính:
Luận án Tiến Sĩ Lê Thiện Phúc, lưu trữ tại Australian National University

Title:  Variation in linguistic politeness in Vietnamese: a study of transnational context
Author(s):  Le, Phuc Thien
Publisher:  Asia-Pacific Linguistics (SEAMLES)
Description:  This work is a revised PhD dissertation comparing Politeness in Vietnamese spoken in Vietnam and Australia, hence the “transnational context”. The study uses naturalistic speech data recorded in everyday public contexts, including shops and markets, where the Vietnamese vernacular. The data corpus for each national context are more than 1000 turns at talk, and was transcribed and analysed in relation to four independent variables: national context, gender, role and generation. Through the data analysis, 21 categories of politeness marker are identified, defined and discussed in conjunction with general linguistic politeness theory concerning the interlocutor's “face wants” and two concepts of politeness in Vietnamese: (1) strategic politeness (lịch sự) and (2) respectful politeness (lễ phép). The main findings emerging from the analysis are that Vietnamese living in Australia are more linguistically polite than those living in Vietnam, using significantly more politeness markers (7 of 10) across 21 categories. Further in-depth exploration reveals how the usage of specific categories of marker is similar and different across the national contexts, and possible explanations for these differences in relation to intercultural contact and socio-political change are presented.
Citation:  Le, P. T. (2013). Variation in linguistic politeness in Vietnamese: A study of transnational context. Asia-Pacific Linguistics Open Access Monographs, A-PL 007; SEAsian Mainland Languages E-Series, SEAMLES 006. Canberra, ACT: Asia-Pacific Linguistics (SEAMLES)
Type:  Book
URI:  http://hdl.handle.net/1885/10093
ISBN:  9781922185068
Appears in Collections: Open Access Research


Files in This Item:

FileDescriptionSizeFormat
Le_VariationLinguistic2013.pdf 2.32 MB Adobe PDF Thumbnail
View/Open

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
16 Tháng Năm 2012(Xem: 20435)
Và còn biết bao nhiêu điều xin nhường cho các coment bình luận... Quốc ca của một đất nước phần nào cũng thể hiện quan điểm của một dân chế độ đúng không các bạn? Chẳng trách hôm nay chúng ta...
11 Tháng Năm 2012(Xem: 16924)
Một mình tay chống tay chèo Xuôi theo vận nước khó nghèo do ai?
10 Tháng Năm 2012(Xem: 9594)
Ngày nay dù có bị bôi bác đến mức nào chăng nửa, thì sự thật cũng là sự thật. Đó là thành quả sau chín năm hiện hữu của nền đệ nhất Cọng Hòa Miền Nam từ 1955 đến ngày 1-11-1963, đã tạo được một chính quyền hợp hiến và nền an ninh trật tự, suốt từ Bến Hải vào tới Cà Mau.
10 Tháng Năm 2012(Xem: 9457)
Sẽ có một ngày, ly nước tràn đầy! Cường quyền dù bạo ngược lẽ nào, khi người dân đến chỗ cùng đường, vùng lên thành giông bảo, quét sạch loài bán nước, hại dân. Hởi ai người hào kiệt, hãy đứng lên tựu nghĩa, dẫn dắt dân tộc nầy qua chốn lầm than!
09 Tháng Năm 2012(Xem: 92016)
Như cụ Đồ mộc mạc ngày xưa: “ Nước trong rửa ruột sạch trơn Một câu danh lợi chi sờn lòng đây Sớm voi, tối vịnh vui vầy”
07 Tháng Năm 2012(Xem: 9364)
Thầy nhập thiền, trò nghiền ngẫm về những điều vừa được nghe. Chú tiểu đồng bỗng nhớ lại câu: “Đạo là để thực hành chứ không phải là để nghiên cứu suông”. Ánh bình minh ló rạng, chú tiểu có cảm giác lòng mình cũng đang có bình minh.
04 Tháng Năm 2012(Xem: 10732)
Những người tin hoàn toàn vào định mệnh thì sẽ rất thụ động. Nói đúng hơn họ sợ làm cái gì đó khác hơn để thay đổi hoàn cảnh, nên phải đứng yên cắn răng chịu đựng
04 Tháng Năm 2012(Xem: 11052)
Là người con Phật xứ Việt, chúng ta xin chia xẻ niềm vui thành tựu Phật sự vĩ đại này đến với Phật giáo thế giới và xin chắp tay nguyện cầu cho Trung tâm Dhamakaya tiếp tục thành công trong sứ mệnh mang ánh sáng hòa bình và an lạc cho nhân sinh trong kỷ nguyên mới này.
03 Tháng Năm 2012(Xem: 10631)
Là Phật Tử, chúng ta luôn luôn tôn trọng và bảo vệ lá cờ Phật Giáo, vì trên hết, nó tượng trưng cho Phật Giáo, và cho tinh thần đoàn kết, bất phân biệt của tín đồ Phật Giáo trên toàn thế giới .
27 Tháng Tư 2012(Xem: 10298)
Lịch sử VN từ ngày có đảng và nhà nước cộng sản VN là những sai lầm nối tiếp sai lầm, gắn liền với những cụm từ gợi lên những ký ức kinh hoàng. Từ “cải cách ruộng đất,” “nhân văn giai phẩm,” vụ án xét lại, thuyền nhân, cải tạo tư sản, cải tạo công thương nghiệp, v.v... và bây giờ là “cưỡng chế, giải phóng mặt bằng”!
27 Tháng Tư 2012(Xem: 12491)
Quả thật, những quyển sách giáo khoa sẽ không bao giờ nhắc tới cộng sản Việt Nam hay "Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa" kèm theo tấm hình một cái xác đang bốc mùi nồng nặc, đàng sau là lá cờ đỏ sao vàng rách nát. Đây không phải là Việt Cộng của những năm 1960, đây chính là cộng sản Việt Nam ngay lúc này!
27 Tháng Tư 2012(Xem: 28618)
Những con người có lương tâm và tự trọng không bao giờ vui sướng được trong nỗi thống khổ to lớn ấy của dân tộc. Thử hỏi xương máu của hàng triệu con người đã ngã xuống trong cuộc chiến chỉ để tạo nên một Việt Nam thống nhất trong chia rẽ, thống nhất trong sự Hán hoá, thống nhất trong sự mất tự do và quyền làm người hay sao? Ba mươi tháng Tư - xin cầu nguyện cho tự do và nhân phẩm, cho sự Hoà hợp dân tộc và nền công lý.
26 Tháng Tư 2012(Xem: 11278)
Từ ngàn xưa, tiền nhân chúng ta đã từng vượt biển để tránh bị tiêu diệt. Đó là trường hợp của hậu duệ nhà Lý. Trưóc chánh sách “nhổ cỏ phải nhổ tận gốc” của Trần Thủ Độ, con cháu nhà Lý đã phải liều chết vượt biển sang Triều Tiên tị nạn. Ở lại chắc phải chết; liều mạng ra đi may ra có thể sống còn; thế là tiền nhân chúng ta quyết định ra đi!
26 Tháng Tư 2012(Xem: 10345)
Mặt khác trong tập hồi ký của cố Tổng Thống Richard Nixon, ông viết rằng, khi thấy đoàn người Việt Nam di tản ngơ ngác trước cảnh lạ quê người, ông thầm nghĩ nếu ông còn tại chức sẽ không có cảnh tượng đáng thương nầy. Lòng trắc ẩn thật hay lương tâm bất ổn vì những quyết định tàn nhẫn của chính mình?
25 Tháng Tư 2012(Xem: 29910)
Đứng trên đầu dốc Châu Thới, nhìn về phía phi trường Biên Hòa, pháo vc nỗ ùng oằn, khói lửa tuôn cuồn cuộn! Nhín về phía tỉnh lỵ, ánh nắng chiều tà thoi thóp trên thành phố thân yêu bên kia sông Đồng Nai đang trong cơn hấp hối, thật não lòng!
24 Tháng Tư 2012(Xem: 10496)
Sinh lão bệnh tử là quy luật ở đời, không chống lại được. Khi thần chết gọi thì thanh thản mà đi. Cốt sao sống ngay thẳng không hổ thẹn với lương tâm và cuối cùng đặt cho mình một dấu châm hết thật tròn.
24 Tháng Tư 2012(Xem: 9889)
Ngay sau khi Bạc Hy Lai – ngôi sao đang lên của phe Tân Tả và “thái tử Đảng” – bị quản thúc cùng lúc với lệnh bắt giam bà vợ Bạc là Cốc Khai Lai, những phần tử trung thành nhất của phe này đã lên tiếng kêu gọi đấu tranh vũ trang.
22 Tháng Tư 2012(Xem: 10949)
Các phương tiện truyền thông như tạp chí “Wired” Mỹ, mạng tin tức kỹ nghệ quốc phòng Nga cho biết, quân Mỹ tuyên bố đã không còn sợ tên lửa đạn đạo chống hạm DF-21D của Trung Cộng nữa, bởi vì phương pháp tác chiến (chiến pháp) đáp trả đã “thành hình”.
19 Tháng Tư 2012(Xem: 10276)
Tôi vốn gốc nhà quê hiền lành, lớn lên gặp thời chinh chiến điêu linh, cảnh máu đổ, thây phơi cũng trông thấy đủ nhiều nên chuyện binh đao cực chẳng đã phải đem ra luận bàn vì tình thế nước nhà đang trong cơn nghiêng ngả.
14 Tháng Tư 2012(Xem: 11214)
SUY GẨM NHÌN LẠI MÌNH TRONG CUỘC SỐNG, ĐỂ SỐNG MỘT CUỘC ĐỜI Ý NGHĨA HƠN
14 Tháng Tư 2012(Xem: 11721)
Hiện tượng này đã lan nhanh khắp Bắc Phi và Trung Đông trong năm nay, cho ta thấy rằng tự thân bản chất của thay đổi chính trị trên khắp thế giới đang biến chuyển, gây mất ổn định ngay cả những chính quyền độc tài có vẻ vững chắc nhất. Trung Quốc không thể nào tránh khỏi làn sóng “dân nổi can qua” này,
13 Tháng Tư 2012(Xem: 10982)
Mời xem ảnh thú vật, côn trùng tạo từ nghệ thuật ghép ảnh
12 Tháng Tư 2012(Xem: 9705)
Dòng tộc CHXHCNVN hiện đang trong tình trạng kẹt to về kinh tế vĩ mô. Uy tín tín dụng quốc tế bị suy giảm vì vụ này. Thằng S&P to mồm la ầm lên và đánh sụt hạng tín dụng quốc tế từ hồi tháng 12/2010. Tình cảnh kinh doanh bi đát
11 Tháng Tư 2012(Xem: 19608)
"Bà nào muốn làm goá phụ sớm, thì cứ cằn nhằn ông chống cho nhiều vào, rồi thế nào cũng được mãn nguyện sớm." Mấy bà nghe, háy nguýt ông sắc như dao chém
11 Tháng Tư 2012(Xem: 10271)
Thanh niên là “ Rường cột Quốc gia “, Thanh niên là “Người chủ tương lai của Đất nước”. Ngay lúc nầy đây, các bạn hãy hành xử cho xứng đáng là người chủ tương lai của nước Việt, nước Việt của Vạn Thắng vương Đinh Bộ Lĩnh, một thời xưng Quốc hiệu Đại Cồ Việt.
11 Tháng Tư 2012(Xem: 9592)
Nhà Trắng được xây dựng từ năm 1792 tới năm 1800, là một biệt thự được sơn màu trắng và được xây dựng bằng sa thạch theo kiểu tân cổ điển. Bên trong Nhà Trắng như thế nào? Hãy cùng khám phá nhé!
09 Tháng Tư 2012(Xem: 9460)
Chỉ vì chúng, chính chúng, phường phản nước, hại dân sồng phè phởn, ca múa trên bửa tiệc đầu lâu, xương máu dân lành ! Một tay gạt nước mắt, một tay run rẩy gõ bàn phiếm những dòng mở đầu, giờ đây không còn nghĩ gì được nữa, xin dừng lại nơi đây.
04 Tháng Tư 2012(Xem: 94222)
Nhân bản là tình thương Không đương cự được súng đạn Nhưng súng đạn rồi sẽ hết Tình người còn dài lâu
01 Tháng Tư 2012(Xem: 9197)
Ngày nay lớp người kể trên phần lớn đã già yếu lại thêm nhiều tật bệnh sau bao năm tù đầy gian khổ. Tuy nhiên hầu hết đều giữ được trong lòng “chút lửa thiêng sông núi Việt” dành chuyển lại cho thế hệ mai sau.
27 Tháng Ba 2012(Xem: 9979)
Tôi tin rằng khi sự thể đi đến chỗ quyết liệt, không thiếu gì người trẻ có lòng, dù không quay về với đồng bào, chắc chắn cũng khước từ dùng bạo lực súng đạn.
22 Tháng Ba 2012(Xem: 9955)
Là con Phật thực hành hạnh bồ tát, “tự giác, giác tha”, vừa dứt trừ biệt nghiệp ác bản thân vừa góp phần diệt cộng nghiệp ác cho nhân quần xã hội: Ác nghiệp cọng sản.
19 Tháng Ba 2012(Xem: 12289)
Hiện nay, Cánh đồng Chum vẫn là một bí ẩn đầy sức cuốn hút đối với các nhà khảo cổ học cũng như những du khách tới đây. Bởi vẫn chưa có một câu trả lời chính xác cho nguồn gốc, thời gian ra đời của những chiếc chum này.
17 Tháng Ba 2012(Xem: 13591)
Tôi muốn nói với mọi người rằng những mầm măng non của đất nước sẽ lớn lên trên đống hoang tàn của chiến tranh nhờ sự hy sinh của người lính Việt Nam Cộng Hòa.”
17 Tháng Ba 2012(Xem: 10270)
Ngày nay, giới trẻ đã thức tỉnh. Chỉ còn quả quyết dấn thân tranh đấu vì Đại nghĩa Dân tộc là xốc tới. Xin nhắc lại đây tinh thần lẫm liệt Diên Hồng:
15 Tháng Ba 2012(Xem: 10503)
bắt đầu bằng:”Bàn tay nhỏ xíu của thai nhi, 21 tuần của Samuel Alexandre Armas ló ra từ tử cung của người mẹ để nắm lấy ngón tay của bác sĩ Joseph Bruner như tỏ ý muốn cám ơn vị bác sĩ đã tặng mình sự sống “
14 Tháng Ba 2012(Xem: 9967)
Chúng tôi chiến đấu trên mặt trận văn hóa. Bắt chước ông Luật sư, tôi bảo: Thời gian của tôi không còn nhiều, tôi chỉ có khả năng gõ bàn phiếm góp phần tranh đấu giải trừ chế độ toàn trị cs
08 Tháng Ba 2012(Xem: 9448)
Ngày nay, lớp trẻ nối nghiệp cha, ông quyết chí đạp đổ cường quyền, không phải vì ước mơ công hầu khanh tướng mà chỉ vì cứu nước, cứu dân mới thật là hào hùng, cương liệt.
05 Tháng Ba 2012(Xem: 10542)
Hơn nữa, chúng ta cũng đã từng được nghe các cụ nhắc nhủ nhiều lần: “Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn”, hoặc “tham thì cực thân, Phật đã bảo thầm thì chớ có tham [ăn]”.
05 Tháng Ba 2012(Xem: 10781)
Đối với đa số người Việt đã từng sống trải qua, ngày 30.04.1975 là một biến cố đau thương nhứt của một đời người. Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy - một bình luận gia am tường mọi biến chuyển quốc tế, từng nổi tiếng với những bài nhận định thời cuộc
04 Tháng Ba 2012(Xem: 9963)
Thế gian này nếu nhẫn được một chút thì sóng yên bể lặng, lùi một bước biển rộng trời cao. Nhẫn, vạn sự được tiêu trừ. Nhẫn chính là biết xử sự, biết hóa giải, dùng trí tuệ và năng lực làm cho chuyện lớn hóa thành nhỏ
03 Tháng Ba 2012(Xem: 9842)
Trong khi VC đang bị áp lực tranh đấu của đồng bào Hải ngoại mà chùn tay trong việc bắt bớ,giam cầm những người chống đối trong nước,thì việc một số người Việt vì mưu đồ phe nhóm toan làm nhẹ sức mạnh tranh đấu của đồng bào Hải ngoại là Tội Ác.Vì làm như vậy là bỏ rơi những anh em Quốc Gia chống Cộng chết rục trong tù.
02 Tháng Ba 2012(Xem: 12746)
Nên nhớ là không có thuốc nào có thể chữa bệnh Alzheimer được hết kể cả thuốc thiên nhiên, thuốc Đông y, thuốc Bắc, vân vân. Và lang băm vẫn còn là vấn nạn trầm trọng hiện nay!
02 Tháng Ba 2012(Xem: 18547)
Hãy chọn cho mình một bộ đồ thật thoải mái và một căn phòng thoáng khí trước khi lên giường ! Mà trước khi đi ngủ, đừng xem những bộ phim ma hay kiếm hiệp gây ảnh hưởng tinh thần. Ngay cả việc ngồi liên tục với máy tính trước khi lên giường cũng khiến dễ dàng bị bóng đè.
29 Tháng Hai 2012(Xem: 13258)
NHỨT TƯỚNG CÔNG THÀNH VẠN CỐT KHÔ, NHỮNG HÌNH ẢNH ĐƯỢC GHI LẠI NƠI YÊN NGHỈ CỦA NHỮNG NGƯỜI NĂM XUỐNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI CỦA ĐẤT NƯỚC
28 Tháng Hai 2012(Xem: 11616)
Chuyện lạ có thật Một mặt trời nhân tạo khổng lồ được dựng lên ở quảng trường Trafalgar thu hút sự chú ý đặc biệt của những người dân thủ đô nước Anh trong những ngày giá rét này.
26 Tháng Hai 2012(Xem: 10661)
Lần đầu tiên, tất cả 44 vị tổng thống của nước Mỹ bằng tượng sáp đã hội ngộ tại một phòng trưng bày mới khai trương ở thủ đô Washington.
24 Tháng Hai 2012(Xem: 13352)
Họ là những nông dân tự trang bị cho mình đạn dược, súng ống, lương thực, quần áo. Đó là truyền thống của cao bồi Texas còn lưu đến bây giờ. Chính quyền có thể cấm bài bạc, đĩ điếm nhưng cỡi ngựa mang súng là quyền tự do cá nhân đó.
23 Tháng Hai 2012(Xem: 16117)
Giây phút ngọt ngào của các chính trị gia Có thể họ là những nhà lãnh đạo cực kỳ nghiêm nghị trên chính trường nhưng khi ở bên người bạn đời của mình, họ lại trở nên rất ngọt ngào.
23 Tháng Hai 2012(Xem: 14202)
Nhưng trên thực tế,đã có nhiều người nhớ về tiền kiếp,có những người tái sanh do ý nguyện độ sinh như những vị Lạt ma Tây Tạng,có những người đã trải qua kinh nghiệm cận tử,có những nhà ngoại cảm có thể tiếp xúc với người chết…thì như vậy,sau cái chết,còn có nhiều điều bí ẩn mà ngay cả Khoa học cũng chưa giải thích được
22 Tháng Hai 2012(Xem: 24314)
Hiểu tường tận thế rồi, trên đường tu chúng ta mới khỏi lầm lẫn. Tôi thấy đa số người tu đều quí thân như vàng ngọc, rất quan trọng lời khen tiếng chê, cho nên phiền não dẫy đầy. Đó là vì không thấu triệt được lý đạo, cứ ngỡ mình tụng kinh gõ mõ thế là tu tốt rồi. Đâu phải ăn chay là giải thoát, đâu phải tụng kinh nhiều là giải thoát mà phải thấu đáo được lời Phật dạy, sống đúng như vậy mới giải thoát sanh tử được.