12:20 SA
Thứ Sáu
26
Tháng Tư
2024

NỖI LÒNG CỦA MỘT ''GIÁO SƯ'' - Nguyễn Văn Cam

25 Tháng Hai 201412:00 SA(Xem: 9875)

NỖI LÒNG CỦA MỘT ''GIÁO SƯ''
(ra trường năm 1973 và mới về hưu)
40 NĂM NHÌN LẠI
(Thay lời tựa)
40 năm là quãng thời gian không dài, chẳng ngắn.
Không dài vì, so với lịch sử 4.000 năm của dân tộc, nó chỉ bằng 1/100, chỉ là một chấm đen nhỏ bé trên tiến trình vàng son dài lâu của đất nước.
Chẳng ngắn vì nó là thời gian của nửa đời người, lại là nửa đời sung mãn nhất của thế hệ cựu sinh viên ĐHSP HUẾ hai khóa Lương Văn Can (1969-1973) và Huỳnh Thúc Kháng (1970-1974).
Tốt nghiệp (ra Trường) cách đây 40 năm, hơn 200 sinh viên hai khóa Lương Văn Can và Huỳnh Thúc Kháng như những con chim đã đủ lông, đủ cánh, hớn hở rời tổ ấm ĐHSP HUẾ để tung bay khắp bầu trời miền Trung xanh trong và Tây Nguyên lộng gió, quyết đem tài năng và tâm huyết của mình phục vụ Tổ quốc, góp phần nhỏ bé vào công cuộc thay đổi diện mạo nền giáo dục dân tộc, nhân bản và khai phóng, nhiệt tình đem những kiến thức còn nóng hổi vừa tiếp thu từ ân sư trên ghế giảng đường ĐHSP HUẾ trao truyền cho những thế hệ thanh niên miền Trung và Tây nguyên nghèo khó nhưng hiếu học đang ước ao biết bao những cuộc đổi đời.
Nhưng những cơn giông bão ùn ùn kéo tới đã ngăn chận đường bay của những con chim hồng, chim hộc (*), kéo sà nó xuống gần mặt đất, biến chúng thành những chú chim én, chim sẻ tầm thường, chỉ biết bay vớ vẩn trong không gian chật hẹp hay chỉ biết mổ nhặt thóc lúa rơi vải quanh sân nhà, chẳng còn thời gian mà nhìn ngắm, tiếc thương bầu trời trên kia cao xanh lồng lộng, nơi đã từng chao liệng những đường bay đẹp như cánh diều no gió.
Sau năm 1975, từ vai trò của những chủ nhân ông đầy sáng tạo trên bục giảng, của những mái trường trung học mang tên những anh hùng, danh nhân lẫy lừng của đất nước, chuẩn bị trở thành đội ngũ kế thừa và rường cột vững chắc trong tòa lâu đài giáo dục Việt Nam sang trọng và tử tế, những “tân giáo sư” của hai khóa Lương Văn Can và Huỳnh Thúc Kháng bỗng trở thành giáo viên lưu dung, phải đi học tập nguyên lí, chương trình và phương pháp giáo dục “mới”. Rồi với số tiền trợ cấp ít ỏi, cái sổ gạo quý gấp ngàn lần sách giáo khoa dùng mua bo bo và khoai sắn độn, với chương trình giảng dạy cứng nhắc… chúng ta nếu không bị đóng đinh ngay trên cây thập tự giáo dục của chính mình thì trông giống những người khiếm thị trong thiên đường mù mò mẫm, quờ quạng đi trên con đường giáo dục mù mịt hơn là những người đốt đuốc soi đường và khai sáng trí tuệ.
Mặc dù đất nước trải qua thời kỳ đổi mới nhưng ngành giáo dục vẫn chìm nghỉm trong bế tắc, chẳng có lối ra, không tìm thấy ánh sáng le lói cuối đường hầm. Phẩm chất dạy và học giảm sút, đạo đức học sinh suy đồi, tiêu cực trong đánh giá xếp loại, gian lận trong thi cử, giả dối trong bình bầu thi đua các danh hiệu giáo viên… thường xuyên, liên tục diễn ra ở nhiều nơi làm cho phụ huynh và nhân dân mất niềm tin vào ngành giáo dục vốn trước đây có truyền thống cao đẹp nhất trong những ngành nghề cao đẹp.
Trong bốn mươi năm qua, nhất là vào thời kỳ gian khó toàn diện buổi đầu, 20 (?) cựu sinh viên hai khóa Lương Văn Can (?) và Huỳnh Thúc Kháng (?) vì các nguyên nhân trầm uất, bệnh tật, tai nạn…đã từ trần, đã lìa bỏ chúng ta mà đi; 30 bạn khác, vì nhiều lý do khác nhau, đã bỏ nghề giữa chừng, rời quê hương, định cư ở nước ngoài…đã từ bỏ bục giảng, xa rời ngành Sư Phạm trong muôn nỗi tiếc thương (Lương Văn Can (?) và Huỳnh Thúc Kháng (?).
Ngoài mất mát to lớn về số lượng không lấy gì bù đắp nổi, chúng ta còn mất mát rất nhiều về phẩm chất vì tuyệt đại bộ phận giáo sư hai khóa Lương Văn Can và Huỳnh Thúc Kháng không được trọng dụng, không được sử dụng chất xám, đành chịu thui chột tài năng. Tài năng được đào tạo bài bản và công phu suốt bốn năm miệt mài dưới mái trường ĐHSP Huế, theo thời gian, cứ vô tình theo “ông lái đò” trôi ra sông, ra biển.
Thử tưởng tượng nếu không có thay đổi lịch sử, hơn 200 giáo sư hai khóa Lương Văn Can và Huỳnh Thúc Kháng bây giờ đã đường hoàng ở vào những chức vụ cao trong Bộ Giáo Dục, trong các Viện Đại Học, chiếm những vị trí ưu tú nhất trong các giảng đường Đại Học, các trường trung học để thỏa sức cống hiến và sáng tạo với biết bao nhiêu công trình nghiên cứu về khoa học, giáo dục… sáng tác văn học, nghệ thuật…, là tác giả của bao nhiêu bộ sách giáo khoa nổi tiếng bổ ích.
Ngoài mất mát quá to lớn về số lượng và phẩm chất kể trên, chúng ta còn mất mát rất nhiều về thời gian, tiền bạc, công sức, hoài bãoniềm tin.
lương sư mà không hưng được quốc, đành đau lòng, bó tay đứng nhìn Việt Nam ngày càng chậm tiến và lạc hậu, xấu hổ và xót xa nhìn các nước ở tầm thấp hơn chúng ta trong khu vực Đông Nam Á và chỉ nhỉnh hơn chúng ta trong toàn châu Á vào thập niên 60 vươn lên trở thành những con rồng có thể sánh vai với các cường quốc châu Âu, bỏ xa chúng ta tụt hậu gần mấy mươi năm!
Tuy nhiên, chúng ta rất tự hào được sống ở một trong những giai đoạn thăng trầm vào bậc nhất của lịch sử Việt Nam. Chúng ta tự hào đang là chứng nhân của thời đại. Có sống được và sống hết mình trong giai đoạn lịch sử đầy thử thách này, chúng ta mới có thể tự nhận ra mình có còn đúng là chính mình hay không!!!
Và vui mừng, nhận ra bên cạnh những mất mát to lớn, chúng ta vẫn còn nhiều cái được quan trọng.
Cái được quan trọng nhất là chúng ta vẫn giữ được cái tâm trong sáng.
Chúng ta có quyền tự hào mình là những công dân Việt Nam chân chính. Chúng ta – những môn sinh hậu bối, có quyền ngẩng cao đầu nhìn chân dung hai vị tiền bối Lương Văn Can và Huỳnh Thúc Kháng mà hai khóa chúng ta vinh dự được lần lượt mang tên. Chúng ta đã không phụ lòng các ân sư của trường ĐHSP Huế xưa đã dày công đào tạo chúng ta một cách bài bản, đã giáo dục chúng ta thành những con người lý tưởng, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải mài giũa cái tâm trong sáng không bao giờ bám bẩn, để sống không thành công cũng phải thành nhân.
Cái được quan trọng thứ hai là chúng ta còn giữ được cái tình.
Nhờ giữ được cái tình mà chúng ta mãi mãi vẫn là chúng ta, không bao giờ tự đánh mất mình. Nhờ có tình, chúng ta – trong đó có rất nhiều bạn ở nước ngoài, mới luôn nhớ về nguồn cội, mới luôn nhớ về trường xưa, thầy cũ, bạn hiền, mới khắc phục khó khăn để tham gia, tích cực tổ chức và ủng hộ Hội Khóa để hôm nay thầy trò được hội ngộ, quây quần bên nhau trong một tình cảm tri ân và xúc động không thể nào hơn.
Nhờ có tình mà chúng ta luôn tưởng nhớ các đồng môn của chúng ta đã khuất, thấy như luôn có bạn bên cạnh chúng ta trong mỗi vui buồn, trăn trở thường trực của chúng ta hôm nay.
Nhớ từ Hội khóa hằng năm ở Đà Lạt với vỏn vẹn hơn 10 người, đến Hội khóa chính thức lần I ở Đà Nẵng tăng lên trên 20, Hội khóa lần II,III ở Nha Trang và Huế tăng trên 30, Hội khóa lần IV ở Đà Lạt đã lên đến 50 bạn về tham dự. Số lượng đồng môn hai khóa Lương Văn Can và Huỳnh Thúc Kháng ĐHSP theo thời gian tham gia “nối vòng tay lớn” ngày càng tăng trưởng đáng kể. Và Hội khóa lần 5 này, các bạn ở Huế đã khởi động rất sớm và phân công chu đáo, hy vọng vòng tay lớn chúng ta sẽ nối rộng hơn, dây thân ái chúng ta sẽ siết chặt nhau hơn, tạo điều kiện cho bạn bè gần gũi thân thiết hơn và biết đâu sẽ chẳng có những cuộc kỳ ngộ lần đầu giữa các đồng môn sau đằng đẵng 40 năm xa cách?
Sau 40 nhìn lại, rút cuộc, chúng ta chịu tổn thất khá nhiều về số lượng, tài năng và niềm tin, nhưng chúng ta được rất nhiều về nhân cách và tâm tình.
Còn gì quý hơn tâm tình trên cuộc đời này hỡi bạn?
Và Đặc san HỘI NGỘ này là biểu hiện một chút tâm tình đó, là“của tin còn một chút này làm ghi.
Nên hãy quên ngay những mất mát, hãy trân trọng giữ gìn những cái được rất đáng quý, đừng để nó trôi tuột khỏi tầm tay, nhất là trong những dịp HỘI NGỘ hiếm hoi này, bạn nhé! Vì Thầy ta đã cao niên, chúng ta cũng chẳng còn trẻ nữa (chỉ hơn 20 tuổi cách đây đúng 40 năm!)
Xin dâng trọn tấc lòng này
Tri ân bạn cũ, ơn Thầy, Trường xưa
Nguyễn Văn Cam
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
01 Tháng Năm 2011(Xem: 18536)
Rải tro theo gió... trên đỉnh đèo Hải Vân... ý nguyện của người đã khuất gợi lên trong tôi hình ảnh vừa bi hùng lại vừa lãng mạn, như là sự kết hợp tuyệt vời giữa mối tình của viên dũng tướng với cô con gái đầu lòng của nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.
27 Tháng Tư 2011(Xem: 19675)
Tôi không nói được gì hết, chỉ gục đầu vào vai vợ tôi rồi bật khóc . Vợ tôi chưa biết những gì đã xãy ra nhưng chắc nàng đoán được rằng tôi phải đau khổ lắm mới phát khóc như vậy. Cho nên nàng vừa đưa tay vuốt vuốt lưng tôi vừa nói, giọng đầy cảm xúc :« Ờ…Khóc đi anh ! Khóc đi ! »
23 Tháng Tư 2011(Xem: 18148)
Tôi ngồi đó để tưởng nhớ nước Việt Nam Cộng Hòa thân yêu của tôi. Tôi để hình tôi trên bàn thờ là coi như mình đã chết theo với nước Việt Nam Cộng Hòa của tôi. Tôi chỉ sống lây lất, lo nhang khói cho đồng đội, cho cha mẹ, vợ con
03 Tháng Tư 2011(Xem: 19802)
Trong niềm bồi hồi xúc động đến rưng rưng lệ khi đọc, chắc chắn quý độc giả không thể không biết ơn những người lính VNCH, Mỹ, Úc... đã đổ máu bảo vệ Miền Nam trước làn sóng xâm lăng của cộng sản trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam.... *
23 Tháng Ba 2011(Xem: 20254)
tưởng đã được giải quyết, phân tán người Việt Nam tỵ nạn trên nước Mỹ, nhưng không ngờ Xe đò Hoàng đơn thân độc mã mỗi ngày một chuyến kéo hai thành phố đông dân cư Việt Nam lại càng gần với nhau hơn nữa.
21 Tháng Hai 2011(Xem: 19941)
Già thì già, họ vẫn cảm thấy hạnh phúc – hạnh phúc hơn một tỷ người khác – cho dù hạnh phúc đó vẫn được họ đếm từng ngày sau mỗi buổi sớm mai thức dậy…
10 Tháng Hai 2011(Xem: 18603)
Tôi nhớ ơn anh chị, và cả vợ chồng anh Hy, chịu đựng được chúng tôi, mà không đấm cho vỡ mồm, hộc máu mũi. Càng lâu, tôi càng thấm thía cái câu ' Bầu bí một giàn'
04 Tháng Hai 2011(Xem: 19546)
Thế đó, họ bán, họ mua vừa như thật, vừa như “chơi” nhưng ai cũng hăm hở, náo nức. Dường như mỗi người đi chợ đang “bán”, đang “mua” cho mình một nỗi nhớ quê nhà vời vợi.
02 Tháng Hai 2011(Xem: 21467)
Hương thơm của gạo, vị ngọt của cơm lẩn với cát sạn tựa như cuộc đời của những quân nhân QLVNCH nói chung, SVSQTĐ nói riêng đã tự hào vào ngày mãn khóa sau mấy tháng quân trường mồ hôi thử thách đó là hương thơm của gạo. Để rồi chuẩn bị dấn thân vào cuộc đời đầy gian khổ hiểm nguy sống chết khó lường
28 Tháng Giêng 2011(Xem: 21089)
Họ gặp nhau và nhận ra nhau. Mới đầu, Hà Giang ôm chầm lấy Đôn mà khóc nức nở. Cô quên mất anh đang là một vị thầy tu. Xúc động nhất là khi Hà Giang cho anh biết Lam Khê chính là con của anh. Hai cha con họ ôm lấy nhau thật lâu và cả hai đầm đìa nước mắt.
21 Tháng Giêng 2011(Xem: 19854)
Hiện tại chúng tôi đang sống tràn trề hạnh phúc. Mùa xuân của cuộc đời tuy đến muộn nhưng chúng tôi bằng lòng lắm với những gì mình đang có, đang sống. Thiên đường có thật anh Hoàng ạ! Và chúng tôi đang tắm trong suối nguồn tươi mát của Thiên Đường.
16 Tháng Giêng 2011(Xem: 20288)
Thành phố lên đèn, tôi vật vờ vô định thoáng nghe bên tai tiếng dương cầm giai điệu bản "Giao hưởng số chin, cung rê thứ" của L.V. Beethoven mà tôi học ngày nào. Hiện tại, tôi chơi nhạc đám ma. Cái chết - quy luật tất yếu giúp tôi sinh tồn, các giá trị nghệ thuật cao quý chỉ còn là hoài niệm!
02 Tháng Giêng 2011(Xem: 21998)
Mũi súng AK thúc vào cạnh sườn, người vệ binh chắc cũng ngạc nhiên không hiểu sao bỗng dưng tôi đứng như trời trồng giữa lộ. Anh quắc mắt nhìn tôi dò hỏi, tôi không nói gì, im lặng nhập vào dòng tù. Nước mắt chảy dài trên hai má hóp, tôi bước đi như kẻ mộng du ...
07 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20788)
Trong cuộc chiến Việt Nam, những chàng pilot nổi tiếng hào hoa ở thành phố. Là thần tượng của các cô con gái đẹp. Nhưng có lẽ ít ai biết rằng, những chàng trai trẻ ấy lại là những chiến sĩ rất hào hùng trên khắp các chiến trường. Bao phen xem cái chết tựa lông hồng.
05 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 21803)
Lâu nay, khá đông người cho rằng thi sĩ Hàn Mạc Tử và nhà giáo kiêm cư sĩ Hoàng Thị Kim Cúc từng có một tình yêu đôi lứa. Lắm sách báo ghi nhận như vậy. Ngay cả lối sống khá đặc biệt của Kim Cúc – suốt đời độc thân, làm thơ tặng Hàn, chẳng chuyện trò điều này với người trong nhà… – càng khiến dư luận nghĩ vậy.
02 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20258)
Hầu hết bạn bè tôi, nếu còn sống sót sau cuộc chiến tang thương đó, kẻ đã phải ra đi trong loạn lạc, ly tan, người thì được ông bạn đồng minh phản bội năm xưa, can thiệp với kẻ cựu thù cho "ra đi trong vòng trật tự" sau nhiều năm bị đày đọa ngục tù, vợ con nheo nhóc, để giờ này mỗi người trôi dạt một phương, mang theo những vết thương không lành được ở trong lòng. Biết đến khi nào chúng tôi mới đuợc như những con chim trane đang tụ tập ca hót líu lo ngoài kia, trươc giờ bay xuống phương nam?
17 Tháng Mười Một 2010(Xem: 21052)
Một câu chuyện thật dí dỏm. Câu chuyện phần nào đã gợi nhớ đến một quảng đời thơ ấu thật êm đềm, hoa bướm ở vùng quê . Phải chi không có biến cố tháng tư 75, cuộc sống của những người dân miền nam hiền hòa chắc chắn là mãi mãi thanh bình, thịnh vượng, và an lành như tác giả "Lấy vợ miền quê" đã mô tả rất chân thật trong câu chuyện
11 Tháng Mười 2010(Xem: 19393)
Bây giờ, nhìn chú Ba nằm đó, tôi lại nhớ câu nói cuối cùng của chú: “Cứ để lá cờ ở đó, trong đầu óc của chú sẽ nhớ mãi hình ảnh lá cờ VNCH tung bay trong gió. Sau này, lá cờ sẽ ra sao? Để tương lai trả lời.”
08 Tháng Mười 2010(Xem: 20248)
Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo Tỉnh lộ 7 ngày xưa, mang theo trong lòng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng cả bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nhìn núi rừng hai bên đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn nữa...
08 Tháng Mười 2010(Xem: 21995)
Mọi người đều đến cõi đời nầy với hai bàn tay trắng, thì lúc ra đi cũng chỉ với hai bàn tay trắng mà thôi. Ai ai cũng đều biết như vậy, nhưng hễ sao mỗi khi nghĩ đến chết thì thấy rờn rợn và hơi lo một chút... Sống sao cho đáng sống mới là việc khó. Đời là vô thường!
07 Tháng Mười 2010(Xem: 27965)
Kính nguyện cầu Đấng Thiên Thựợng Đế tối cao và Hồn thiêng sông núi phù hộ cho toàn dân Việt sớm có ngày "đắc lộ thanh vân", đưa nước Việt lên đỉnh đài vinh quang thịnh trị ngàn đời.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 22680)
Chúng ta thường đi tìm một cái gì bên ngoài để mang lại cho mình hạnh phúc như vật chất, nhà cửa, xe hơi, máy móc, tiện nghi, … hoặc tình cảm gia đình, thân quyến, bạn bè, người yêu, … hoặc danh vọng, địa vị, lý tưởng. Ta khát khao tìm kiếm vì tưởng mình nghèo nàn, thiếu thốn, tâm luôn phóng ra ngoài chạy theo trần cảnh. Trong kinh Pháp Hoa kể thí dụ đứa cùng tử suốt đời đi ăn xin vì không biết trong túi mình có viên ngọc quý, đến khi được người bạn nhắc tỉnh ngộ lấy ngọc ra xài liền hết đói khổ.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 18877)
Tháng 8-1999, tôi dọn nhà đến một căn phòng mới mướn. Trên ngăn kệ cao của closet, người mướn trước để sót lại một xấp “hồi ký” dầy 27 trang viết tay. Đêm đầu tiên ở phòng trọ mới, tôi đọc đoạn “hồi ký” bi hùng đó với nỗi niềm thương cảm không tả xiết: Thương cảm cho một danh tướng trong bước đường cùng của vận nước đen tối; thương cảm cho phu nhân và 2 người con của Tướng tuẫn tiết và thương cảm vị sĩ quan trẻ, có lẽ là Chánh Văn Phòng của vị tướng anh hùng, tức tác giả của đoạn “hồi ký” nầy.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 19710)
Lần nầy, bà Hoa quyết định tự tay đem hộp tro xương ông chồng về tận Việt Nam. Bà sợ thất lạc thêm lần nữa, thì tấm lòng hoài.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 23260)
Người chết lâu rồi , người còn ở lại Từ cuối chân mây đêm bấc lạnh lùng Ngày hiển thánh cả giống nòi mong mỏi Của những linh hồn hữu thủy hữu chung
06 Tháng Mười 2010(Xem: 19791)
Tôi chắc chồng tôi cũng nuối tiếc như tôi và đang chờ tôi đi với anh. Chúng tôi phải nối tiếp lại những ngày hạnh phúc ngắn ngủi xa xưa. Tôi không thể sống mãi trong cô đơn để run sợ trước những ám ảnh của dĩ vãng và những nhung nhớ khôn nguôi người chồng mà tôi mãi mãi yêu thương như buổi đầu gặp gỡ!!
06 Tháng Mười 2010(Xem: 21669)
Cổ nhân cũng đã có câu “ngu si hưởng thái bình”, hay là ta cứ an phận thủ thường, con gái thì mong trời sinh ra đừng quá đẹp, con trai thì đừng có quá tài ba. Còn giàu có bạc muôn không ham, chỉ mong đừng chạy gạo từng ngày. Cứ làng nhàng là xong, không ai thèm muốn, đố kỵ, ganh ghét, nghĩ chuyện đời: “Giàu như người ta cơm ngày ba bữa, đói như mình đây cũng đỏ lửa ba lần.”
05 Tháng Mười 2010(Xem: 19569)
hôm nay ngồi viết lại những hàng chữ này như được thắp nén hương trang trọng cho chị, thưa chị Nở.