CÓ MỘT THỜI CHINH CHIẾN
Tôi, “Dân Biên Hòa”. Ba chữ “Dân Biên Hoà” nghe “cộc lốc” phải không quý vị? Cộc lốc” thiệt! Tôi biết điều đó. Nhưng ba chữ “Dân Biên Hòa”, theo tôi, ngoài những người sinh quán tại đây, mà ngay những người không phải “Dân Biên Hòa” cũng có thể biết, không nhiều thì ít những điều, những chuyện, những nét đặc biệt của Biên Hoà, một thành phố/tỉnh có tầm vóc chiến lược về kinh tế, quân sự…mang nhiều di tích lịch sử và văn hóa của một thành phố/tỉnh lớn đã đóng góp vào sự hưng thịnh của Miền Nam Việt Nam.
Tôi sinh ra ở một ngôi làng nhỏ cách thành phố Biên Hòa vài chục cây số, nơi có các nhánh từ dòng Đồng Nai đổ về rồi len lỏi tạo thành những con suối, con rạch, con kênh nhỏ mang nước về tưới xanh ruộng lúa, cây ăn trái, bông hoa… suốt cả bốn mùa. Thời tôi còn bé tí, nghe bà nội và ba má kể là vùng này sống bình yên và sung túc lắm. Những cánh đồng lúa với tầm nhìn ngút ngàn chẳng thấy bờ ruộng, đúng như câu nói ví von “ruộng đồng cò bay thẳng cánh” (không biết có thêm mấy chữ chó chạy ngay đuôi hay không?). Tôi không biết gia đình tôi có bao nhiêu ruộng lúa, nhưng gạo thóc thì quanh năm đầy đến cả vài chục lu. Đó là chưa kể đến nào là vườn bưởi, chôm chôm, cam quýt, sầu riêng, trầu cau…mỗi năm cũng mang về hoa lợi không ít. Tuy ở nhà quê nhưng mấy chị em chúng tôi, không ai phải “chân lấm tay bùn” để phụ vào những việc đồng áng hay vườn tược. Ông nội tôi mất sớm, bà nội và nhất là ba tôi, tuy ở “nhà quê” nhưng theo Tây học, luôn khuyến khích con cái học hành cho đỗ đạt để sau này có việc làm tại các thành phố chứ không bao giờ nói đến chuyện chia ruộng chia vườn hay của cải hồi môn cho con cái. Đặc biệt bà nội tôi thì lúc nào cũng dạy cho chị em chúng tôi biết lễ nghĩa phép tắc từ trong sinh hoạt gia đình cho đến việc tiếp xúc với người ngoài. Nhất là “lời ăn tiếng nói”, bà tôi dạy chúng tôi phải nói những chữ nào, những câu gì cho phải phép với mọi người, không được chọc phá những kẻ tật nguyền, không được kết bè kết bạn nói những chuyện vô bổ, không nói năng cười đùa lớn tiếng. Trong hàng bà con phải biết kẻ trên người dưới, chào hỏi thưa trình đúng mức. Ăn mặc phải đàng hoàng, kín đáo. Ngoài ra, bà tôi, khi rổi rảnh còn kể cho chúng tôi nghe những chuyện cổ tích hay những điển tích của người xưa hoặc những chuyện Tàu, bà thuộc cả thơ Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu và đọc cho chúng tôi nghe Tuy theo Tây học nhưng ba tôi vẫn nghiêm khắc với con cái, không ngoài mục đích là khuyến khích cho chúng tôi chăm chỉ học hành để tiến thân. Còn mẹ tôi, dĩ nhiên là người giúp ba tôi trông coi ruộng vườn, thu hoạch hoa lợi bốn mùa. Tôi thường thấy có nhiều người từ các nơi đến mua trầu cau, chôm chôm, sầu riêng, bưởi…họ mua cả vườn chứ không mua lẻ. Nếu còn một ít thì mẹ tôi đưa ra chợ để bán. Trong những ngày nghỉ học, tôi cũng thường theo gánh của mẹ ra chợ xem cảnh mua bán tấp nập đông vui. Đặc biệt những ngày giáp tết, sau khi bán hết hàng, mẹ tôi mua sắm mọi thứ như thịt thà rau quả bông hoa bánh mứt…để có đủ các món cúng kiến trong ba ngày tết. Chúng tôi đều có áo quần giày dép mới. Mồng một, sau khi lễ bái trước bàn thờ tổ tiên ông bà, chúng tôi nhận những bao lì xì màu đỏ rồi lắm lúc trốn ra khỏi nhà, vội chạy ra khu chợ lồng đặt “bầu cua cá cọp”, ăn vài đồng thấy ham nhưng rốt cuộc cũng gần như cháy túi, chạy về nhà lấy bánh tét với thịt kho Tàu cùng dưa giá ra ăn…và rỉ rả bánh mứt suốt cả mấy tuần. Ba ngày tết đúng là ba ngày “ăn chơi” chứ chẳng làm gì động tới móng tay. Còn nhiều điều vui quá là vui..nhớ lại…thì chính mình có cả một kho tàng kỷ niệm đẹp quý vô cùng.
Thời đó, chỉ có mấy chị em trong nhà chơi với nhau chứ chẳng có bạn bè như dạo sau này lớn lên ra học ở trường quận, trường tỉnh. Dĩ nhiên có lắm khi, mấy chị em, mạnh ai nấy chơi theo kiểu riêng của mình nên con bé một mình chạy ra vườn, xắn quần lên đến gối lội xuống suối rượt bắt mấy chú cá lòng tong làm ướt cả áo lẫn quần nên bị mẹ rầy. Rượt bắt cá lòng tong là trò chơi thật hấp dẫn, có mấy lần mẹ lại bắt gặp và hăm dọa…bắt mấy con cá đó vô mà ăn…bữa nay đừng ăn cơm…Ôi chao! Ước gì còn được lội bắt cá lòng tong để nghe mẹ la mẹ rầy như ngày nào.. Rõ là chỉ còn trong mơ.
Khi rời làng để ra trường quận, rồi trường quận lên trường tỉnh để học tiếp những năm trung học đệ nhị cấp. Vào lúc ấy, tôi đã hiểu được thế nào là “thời chinh chiến”. Dĩ nhiên, tôi là thân nữ nhi, chẳng phải “xếp bút nghiên theo việc binh đao” vào nơi gió cát sa trường như các bạn học phái nam. Nhưng, có lẽ (hay chắc chắn?) một trăm phần trăm chị em phụ nữ chúng tôi đều được vinh hạnh “ăn theo”những hệ lụy của một thời chiến vô cùng khốc liệt, trong đó nhiều bạn bè thân nhân của tôi đã nằm xuống trên nửa mảnh đất hình chữ S để bảo vệ và dựng xây nền độc lập tự do.
Tôi còn nhớ như in trong trí lúc mà cuộc chiến chưa bùng nổ dữ dội khắp mọi nơi trên phần đất thân yêu Miền Nam. Lúc còn cắp sách ngày hai buổi đến trường làng, tôi đã chứng kiến một phần của cuộc chiến chưa có tiếng súng được phát động dưới chiêu bài “giải phóng” của những người phương Bắc vào những năm đầu của thập niên 60 thế kỷ trước. Cuộc chiến bắt đầu từ những vùng nông thôn, khi ấy cũng chưa nghe tiếng bom đạn như giữa thập niên 60 về sau. Tôi còn nhớ, nhiều đêm cả nhà đang ngon giấc thì chợt nghe tiếng lao xao bên ngoài rồi tiếng gõ cửa, bốn năm ông du kích mặt còn trẻ măng xuất hiện với mấy khẩu súng cổ lổ sỉ, mặt mày xanh xao. Mấy ông này hình như là dân địa phương, họ biết rõ địa hình địa thế trong làng, biết rõ hoàn cảnh đời sống của từng gia đình và nhiệm vụ của họ là đi thu gạo thu tiền. Sau khi nhận được các thứ trên, họ móc trong túi một tờ biên nhận đưa cho bà tôi và nói mai mốt sẽ trả lại số nợ ghi trên giấy…Những lần như vậy, mấy chị em tôi đều chui xuống gầm phảng, chung quanh có đặt bao cát để trốn. Chúng tôi, đứa nào cũng sợ xanh mặt. Có đôi lần, họ còn bảo…khi nào các em lớn, các anh sẽ dắt các em vào khu để tập ca tập hát vui lắm…Nhà trong vườn khi đó chỉ có bà nội, má và hai ba đứa trẻ con như tôi. Sau mấy lần du kích vô nhà, ba tôi quyết định cứ hai ba giờ chiều là chúng tôi phải di tản ra quận để ngủ. Không gia đình nào tránh được cái nạn này nhưng mọi người đều âm thầm chịu đựng vì lý do sợ phía quốc gia biết được sẽ nói mình tiếp tế cho việt cộng thì cũng khổ. Nhiều lần, trước khi rút đi, mấy ông du kích giảng cho một bài về cách mạng giải phóng…mấy ông nói rất trơn tru và lần nào cũng như lần nào với những lời lẽ đều giống nhau, không sai một chữ. Có một buổi sáng, trên đường đi học sớm, mấy đứa chúng tôi lượm được một tập giấy cũ, bên trong có khoảng chục trang giấy in bằng ronéo. Chúng tôi tò mò chụm đầu vào đọc, thì ra trong tập ghi tất cả những gì, không sai một chữ so với những lời của mấy ông du kích đã nói mỗi lần đột nhập vào nhà chúng tôi.
Chưa hết. Nhiều lần mấy ông du kích ban đêm mò về đắp mô trên mấy con lộ nhỏ khiến cho mọi người lắm phen khiếp vía. . Dân làng phải gọi lính Quốc gia đến để phá mô. Thời chinh chiến, chẳng những người Dân Biên Hòa phải chịu những hệ lụy, mà cả hai chục triệu người Miền Nam phải gánh chiụ bao nỗi tai ương của pháo kích, gài mìn, ném lựu đạn…Tôi có một người quen bằng tuổi tôi, buổi trưa đang nằm đong đưa trên võng, không biết một viên đạn oan khiên từ đâu bay tới rơi ngay vào đỉnh đầu khiến bạn tôi chết ngay tại chỗ. Trong vùng tôi ở, nghe bà con kể nhiều chuyện rằng ban đêm mấy ông du kích mò về tìm giết những người làm cho chính quyền Quốc gia, đặc biệt là những người làm tại chính quyền xã ấp.
Khi tôi lên học ở trường tỉnh thì cuộc chiến càng ngày càng trở nên khốc liệt. Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng, nhiều sư đoàn lính Bắc việt cùng xe tăng và vũ khí nặng liên tục đưa vào Miền Nam.Tôi nghe radio và đọc báo thấy có những trận đánh lớn như trận Đỗ Xá, Bình Giả, Đồng Xoài…rồi cuộc tấn công thảm sát năm Mậu Thân ở Huế. Những địa danh như Cổ Thành, Hạ Lào, Charlie, Thạch Hãn, Đại Lộ Kinh Hoàng…thường xuyên được nhắc tới. Tết Mậu Thân làng tôi cũng bị mấy ông du kích và lính miền Bắc xâm nhập với quân số khá đông nên không quân Việt Nam Cộng Hòa phải can thiệp, có năm sáu hố bom quanh nhà tôi với vài xác của mấy ông bộ đội và du kích, nhà tôi bị bom dội hư một góc.
Cuối tuần nào tôi cũng lên xe đò trở về nhà sau một tuần đến lớp. Rồi mùa hè được nghỉ, tôi ở nhà suốt ba tháng hè với những vui thú đồng quê. Nhưng chiến cuộc thì vẫn cứ tiếp diễn. Trên những con lộ nhỏ thường xuyên bị đắp mô, gài lựu đạn khiến dân chúng đi lại khó khăn. Ban đêm lại bị mấy ông du kích quấy rầy, thu thuế và hăm họa. Rồi những cuộc hành quân lớn đánh vào sào huyệt việt cộng có trực thăng chuyển quân, có không quân oanh tạc cùng các đơn vị của Thủy Quân Lục Chiến và Nhảy Dù. Tiếng đại bác ì ầm ngày đêm, chiến tranh đã đến sát với đời sống của dân chúng khiến ai ai cũng hốt hoảng lo sợ. Hầu như gia đình nào cũng có con đi vào quân đội. Trong lớp học chúng tôi, thỉnh thoảng có vài nam sinh vắng mặt, hỏi ra mới biết là họ đã “khoác áo chiến binh”. Trên báo chí đầy dẫy những trang chia buồn phân ưu cáo phó…
Những ngày đầu xuân 1973 mọi người tràn ra đường hoan hô hoà bình, mừng chiến tranh chấm dứt, thắp nhang bái tạ đất trời. Những nụ cười và cả nước mắt hân hoan. Hiệp định Paris với những mảng da beo, cắm cờ, rút quân, giành dân, chiếm đất…chưa kịp ráo mực thì những trận tấn công mới được phát động từ phía bên kia vĩ tuyến 17, lần này quy mô hơn, ồ ạt hơn và đẫm máu hơn. Thực sự là một cuộc xâm lăng. Và kết cuộc là…như mọi người đã biết với chất ngất đau thương, tù đày đói khát chết chóc đến với hai mươi lăm triệu dân Miền Nam, biển đông và rừng sâu núi thẫm chôn vùi cả triệu người vượt thoát để đi tìm tự do.
Trong thời chinh chiến chúng tôi được nghe nhiều bản nhạc nói về chiến tranh, về sự hy sinh anh dũng cuả các anh lính chiến... Cũng không thiếu những bài hát mô tả những cuộc tình đang đẹp bỗng tan tác chia ly, anh vui lên đường làm nhiệm vụ, nàng trở về thương nhớ sầu bi, những vành khăn tang, những dòng nước mắt đau thương vô tận…Mỗi ngày nỗi sợ càng gia tăng…
Khi các đơn vị quân đội đóng quân tại địa phương chúng tôi, có mấy vị sĩ quan thường hay ghé nhà ba tôi để xin tắm rửa nghỉ ngơi, trong đó có một vị sĩ quan mang cấp bậc trung uý, đó là nhà văn Song Linh. Lúc tôi lên Sài Gòn học, đọc báo tình cờ thấy nơi trang tin buồn, nhà văn quân đội này đã tử trận, tên ông ông Nguyễn Đức Nghiêm. Tôi vẫn thường đọc truyện của ông viết, phần nhiều là miêu tả đời lính trên các tạp chí Văn, Văn Học, Bách Khoa…Dạo đó tôi thích đọc văn thơ của các nhà văn quân đội như Song Linh, Văn Quang, Hoàng Hải Thủy, Phan Lạc Phúc, Tô Thùy Yên, Phan Nhật Nam, Trang Châu, Hà Huyền Chi, Thế Uyên…Phan Nhật Nam là chồng của Lê Dung, bạn cùng lớp với tôi, người đẹp Ngô Quyền một thời cũng không tránh được hệ lụy của một thời chinh chiến.
Tại thành phố Biên Hòa, không khí chiến tranh diễn ra hàng ngày vì nơi đây có căn cứ không quân với hàng trăm máy bay chiến đấu bay lên đáp xuống thường xuyên gây tiếng động liên tục cả ngày lẫn đêm. Cuộc chiến đang hồi sôi bỏng. Sáng sớm đã thấy các chàng không quân trong những bộ đồ bay “bay bướm” từ các nẻo chạy vào cổng phi trường. Đến chiều các chàng lại tỏa ra trên các đường phố khiến các em nữ sinh áo trắng áo xanh nhìn theo với ánh mắt ngưỡng mộ. Có chuyện vui vui xảy ra tại khu nhà bọn tôi trọ học. Chuyện là: Có một anh chàng sắc đẹp rất khiêm nhường, không biết học hành nơi đâu, ở gần như đối diện với căn nhà của chúng tôi, cứ mỗi khi màn đêm buông xuống, chàng ta cất tiếng hát vịt đực rất não nùng (não nùng hơn cả Lính Chê) cốt chỉ dành riêng cho mấy chị em chúng tôi thưởng thức. Sau nhiều lần trình diễn, thấy tiếng hát của mình không lọt được vào các trái tim của bọn tôi cho nên có một buổi chiều, cũng khi hoàng hôn vừa buông xuống, chúng tôi thấy chàng ta, không biết mượn của ai đó một bộ đồ bay màu xám rộng thùng thình, tròng vào người, đứng chần dần ngay trước cửa cố để cho chúng chiêm ngưỡng. Chốc chốc chàng ta quay vào rồi lại trở ra. Thấy chẳng ai đoái hoài, chàng ta biến mất. Chuyện chàng phi công dổm này cũng khiến cho bọn chúng tôi vui được đến ba bốn trống canh. Chưa hết, những ngày kế tiếp anh ta tiếp tục độc diễn màn văn nghệ bằng mấy câu trong bài hát “Một chuyến Bay Đêm….giữa lòng trời khuya muôn ánh sao hiền…người trai đi viết câu chuyện một chuyến bay đêm…có người hỏi phi công ước mơ gì…tình ta yêu thương là gió…nhân tình của mây…”. Vô hình chung chàng ta quảng cáo dùm cho các chàng phi công thứ thiệt, sau đó chàng phi công dổm này cũng bay biến theo mây theo gió để gặp người yêu trong mộng…khiến chúng tôi mỗi khi đêm về…nhớ chàng ta da diết.
Nhiều lần, khi từ Biên Hòa lên Sài Gòn và ngược lại, tôi chạy xe theo quốc lộ I, nơi có Nghĩa Trang Quân Đội VNCH. Những lần như thế, tôi đều dừng xe để nghỉ, đứng nhìn bức tượng “Thương Tiếc”. Bức tượng này cũng tạo nên nhiều câu chuyện đầy vẻ huyền thoại. Tôi chỉ còn nhớ tượng do điêu khắc gia đại uý Nguyễn Thanh Thu thực hiện sau khi bản phác họa được ghi trên bao thuốc lá lúc ông vào dinh Độc Lập để trình dự án xây dựng nghĩa trang cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Bức tượng đó là hình ảnh thực của hạ sĩ Võ Văn Hai đang ngồi nhớ bạn mà điêu khắc gia ghi nhận được. Sau 1975 nghe nói tượng Thương Tiếc đã bị “phe chiến thắng” đem ném ngoài sân của một căn nhà bỏ hoang gần bên vệ đường ở tại Dĩ An.
Có một thời chinh chiến khốc liệt khi tôi còn bé cho đến lúc tôi trở thành “người lớn”. Tuy không trực diện với nỗi thống khổ đầy tính hào hùng của cuộc chiến tranh tự vệ nhưng tôi cũng như bao nhiêu thân phận những phụ nữ khác đã hòa quyện vào dòng sinh mệnh chung của hơn hai mươi triệu người dân Miền Nam mà cho mãi đến ngày hôm nay, cuộc chiến ấy vẫn chưa mờ phai trong tâm tưởng. Làm sao quên được…
Phạm Hoàng Đông Phố
GĐ Tam C. Ngô Quyền