12:19 SA
Thứ Tư
1
Tháng Năm
2024

Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh - Hoàng Yên Lưu

23 Tháng Mười 201312:00 SA(Xem: 11243)

Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh

vanghehy-large-content
Hoàng Yên Lưu

Hai nhà văn có công đầu xây dựng nền văn học quốc ngữ, đặc biệt là báo chí, và có nhiệt tâm cải thiện văn hóa, xã hội của chúng ta trong giai đoạn giao thời giữa Đông và Tây hồi đầu thế kỷ XX là Nguyễn văn Vĩnh (1882-1936) và Phạm Quỳnh (1892-1945).
Cả hai đều uyên thâm hai nền học cổ-kim, đều xuất thân hạng đầu trường Thông ngôn, bước đầu sự nghiệp đều bỏ quan trường sang làm báo và cùng qua đời vào tuổi trung niên, tuy nhiên ông Vĩnh dù lớn hơn ông Quỳnh 10 tuổi nhưng cấp tiến hơn ông Quỳnh trong sinh hoạt cũng như về quan điểm và văn phong.
Sự khác biệt giữa hai nhà văn tiền phong kỳ cựu trên được Giáo sư Nghiêm Toản trong bộ Việt Nam Văn học sử trích yếu so sánh như sau:
“Nguyễn văn Vĩnh nổi tiếng dịch rất nhiều sách Tây và có công hội họp các nhà văn tân, cựu cùng thời, lập nên một cơ quan văn học (Đông dương tạp chí) trong buổi quốc ngữ mới sơ khai, gây thành phong trào yêu mến tiếng Việt trong hàng thanh niên trí thức.
Ông dịch đủ các loại: thơ ngụ ngôn, kịch, truyện dài, truyện ngắn, song hay nhất là mấy bộ: Gil Blas de Santillane, Manon Lescaut (Mai nương lệ cốt), Les Trois Mousquetaires (Ba người ngự lâm pháo thủ), Les Misérables (Những kẻ khốn nạn), toàn là văn phẩm có giá trị và rất nổi danh.
Ông dịch thật tài, chỉ cần thoát ý, không cần đúng từng chữ từng câu; lời văn ông có tính chất Việt nam hoàn toàn, làm cho hứng thú kẻ đọc tăng lên; nhiều đoạn ông dịch sát nghĩa vô cùng và văn linh hoạt tự nhiên; chúng ta không ngờ rằng trước đây 30 năm (kể tới năm cuối tiền-bán thế kỷ XX) chữ quốc ngữ mới ở bước đầu, đã có thể diễn dịch được hết ý nghĩa tinh thần câu văn Pháp.
Phạm Quỳnh khác hẳn Nguyễn văn Vĩnh, vì ông chuyên về mặt tư tưởng và lưu ý khảo các học thuyết Thái Tây để luyện cho quốc văn có thể phô diễn được những ý niệm mới; văn phẩm của ông đều đăng ở Nam Phong tạp chí rồi sau in lại thành sách trong Nam Phong tùng thư.
Phần dịch có: Phương pháp luận của Descartes, Đời đạo lý của Paul Carton… Trứ thuật có: luận thuyết, ký sự (Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam kỳ, Pháp du hành trình nhật ký…).
Song trong văn nghiệp của ông, loại khảo cứu mới là phần quan trọng. Xin tạm kể:
- Về phía Pháp: học thuyết Montesquieu, Voltaire, Rousseau… chính trị nước Pháp, Văn minh luận, Thế giới tiến bộ sử.
- Về phía Á đông và Việt Nam: Người quân tử trong đạo Khổng, Phật giáo lược khảo, Hán Việt văn tự, Ca dao tục ngữ, Việt nam thi ca, Văn chương lối hát Ả đào…
Văn ông Vĩnh giản dị nhẹ nhàng, văn ông Quỳnh chắc chắn trang nghiêm; cho nên ta có thể nói văn ông Vĩnh dễ phổ cập trong đám dân thường, còn văn ông Quỳnh có tính chất đạo mạo của nhà học giả”.
Giữa hai ngôi sao văn học đầu thế kỷ XX, Phạm Quỳnh và Nguyễn văn Vĩnh, thì người đương thời lớp lớn tuổi, có khuynh hướng bảo thủ, trọng ông Quỳnh hơn ông Vĩnh. Nhưng với đám trẻ tuổi của thế hệ 1932 như Vũ Bằng (1913-1984), Nguyễn Vỹ (1912-1971)… lại tỏ ra thích ông Vĩnh hơn ông Quỳnh. Ta hãy thử đọc lại hồi ký Văn thi sĩ tiền chiến (ký ức văn học Khai trí xb-Saigon-1970) của Nguyễn Vỹ khi nhà thơ so sánh hai tay kiệt liệt trên văn đàn đã kể trên, hy vọng biết thêm về họ và ảnh hưởng của họ đối với độc giả và giới cầm bút đương thời:
Tác giả những vần thơ Bạch nga, nhớ lại lần đầu tiên trông thấy Nguyễn văn Vĩnh:
“Hồi hãy còn là một sinh viên bé nhỏ, tôi đã coi Nguyễn Văn Vĩnh như bậc Đại Nhân, siêu quần bạt tụy, tài trí vô song. Chỉ vì tôi đã đọc hết của ông bản dịch bộ sách LES MISÉRABLES của VICTOR HUGO. Trước đó, tôi đã đọc vài bản dịch Chinh Phụ Ngâm ra tiếng Pháp, bài Le Lac ra tiếng Việt, tôi đã không được thỏa mãn. Từ khi đọc mấy bài Fables de La Fontaine của Nguyễn Văn Vĩnh dịch ra Việt ngữ, và bộ sách dịch “Những kẻ khốn nạn” của ông rất là vĩ đại, thì mỗi lần chỉ thấy cái tên của ông tôi đã cúi đầu khâm phục rồi.
Vào khoảng năm 1930, báo L’Annam Nouveau của ông bằng Pháp văn ra đời. Tôi mua ngay từ số 1, cũng như các bạn trẻ ham học hồi đó. Dù là sinh viên nghèo, chúng tôi cũng ráng mua cho được, mỗi tuần hai kỳ, các số báo L’Annam Nouveau cho đến khi nó tự đóng cửa, vì ông Vĩnh bị vỡ nợ.
Mê Việt văn của ông, thích cả Pháp văn của ông, tôi chỉ ao ước được gặp ông một lần, được hầu chuyện với ông, dù trong một tiếng đồng hồ. Một buổi chiều vào khoảng ba giờ, một người bạn cùng tôi đang đi trên vỉa hè phố Hàng Gai, bỗng người bạn chỉ tôi một ông to béo, mặc âu phục trắng đội mũ trắng bự giống như cái “mũ thuộc địa” (casque colonial của Tây hồi đó), ngồi trên chiếc xe môtô kềnh càng, nổ bình bịch và kêu rầm rầm, từ hàng Bông chạy thẳng xuống hàng Gai. Chúng tôi đứng lại ngó ông. Lúc ông chạy vụt ngang qua chúng tôi, tôi cúi đầu chào. Ông không trông thấy. Nhưng tôi vui sướng vô cùng. Tôi đã thấy mặt nhà văn Nguyễn Văn Vĩnh.
Trong ba năm còn là cậu sinh viên nhỏ bé, tôi chỉ thấy ông Nguyễn Văn Vĩnh có một lần đó thôi. Nhưng hình ảnh của ông nhà văn to lớn kia đã in sâu vào trong trí nhớ của tôi, và mỗi khi tôi nghĩ đến ông, hay đọc một bài báo, một quyển sách của ông, thì, lạ quá, tôi cứ nghe tiếng xe môtô nổ bình bịch và chạy rầm rầm bên tai tôi”.
Còn chân dung Phạm Quỳnh được Nguyễn Vỹ hồi ức qua lăng kính tình cảm bản thân:
“Một hôm, bọn học sinh chúng tôi, được các giáo sư cho biết là chiều thứ bảy ông Phạm Quỳnh sẽ diễn thuyết tại giảng đường của trường Cao đẳng, chúng tôi nô nức đợi đến chiều ấy để nghe.
Ông chủ nhiệm tạp chí Nam Phong sẽ diễn thuyết bằng tiếng Pháp, về một đề tài rất hấp dẫn: Le Paysan Tonkinois à Travers le Parler populaire (Người dân quê Bắc Việt, xét qua ca dao bình dân).
Kể ra chúng tôi đọc tạp chí Nam Phong đã lâu lắm rồi. Riêng tôi, tôi đã được đọc nó thỉnh thoảng một đôi quyển, của Thầy tôi mượn ở đâu về, vì thời bấy giờ tạp chí Nam Phong ít có bán ở các tiệm sách. Hầu hết độc giả Nam Phong là những quan lại, hoặc một số “trí thức thượng lưu” và “trung lưu” mua năm. Khuynh hướng chính trị gác hẳn ra một bên, chỉ đứng về phía văn học mà thôi thì chúng tôi, tất cả thanh niên trí thức lúc bấy giờ, đều phục cái tài cao học rộng của ông Phạm Quỳnh.
Chữ Pháp, ông viết rất trôi chảy, với một lối hành văn rất bóng bẩy văn hoa, vừa giản dị, khúc chiết, vừa dồi dào ý tưởng.
Việt văn của ông cũng thế. Câu văn rất được săn sóc, điêu luyện theo như hành văn Pháp, rất thận trọng trong việc dùng chữ. Ông đưa đẩy ngòi bút dịu dàng, chững chạc, không dây dưa rườm rà, hoặc nặng nề theo kiểu một số nhà Nho, như ông cử Dương Bá Trạc hay ông Lê Dư, cũng không cứng rắn và đôi khi quá giản dị, thực tế, như cú pháp của ông Nguyễn Văn Vĩnh.
Văn của Phạm Quỳnh là lối văn quí phái, “lối văn hàn lâm viện” như người Pháp nói.
Không thể nào không nhìn nhận rằng thời bấy giờ, ai đọc văn của Phạm Quỳnh cũng đều phải phục văn tài của ông.
Nhất là tụi thanh niên chúng tôi. Thỉnh thoảng chúng tôi cuốc bộ trên vỉa hè phố Hàng Da, thấy ông Phạm Quỳnh ngồi chễm chệ trên chiếc xe kéo nhà, sơn màu gạch bóng loáng, từ trong cổng nhà ông đi ra, hoặc đi đâu về.
Đi xe kéo nhà như thế, là sang nhất lúc bấy giờ. Ông mặc quốc phục Việt, áo dài the đoạn, hoặc Satin. Không bao giờ Phạm Quỳnh mặc Âu phục, chân luôn luôn mang giày Escarpin (một kiểu giày của những người trưởng giả thời ấy), đầu chít khăn đóng, mắt đeo kính trắng. Vì điệu bộ quí phái ra vẻ bệ vệ của ông mà đám thanh niên trí thức chế nhạo ông, đặt cho ông cái biệt hiệu là “Kính trắng tiên sinh”. Tiếng Bắc, kính tức là kiếng trong tiếng Nam…
Hôm chiều thứ bảy ấy, ông Phạm Quỳnh diễn thuyết bằng tiếng Pháp tại giảng đường Cao đẳng Đông Dương ở Hà Nội, đường Bobillot, sinh viên đến nghe rất đông. Ở từng dưới, là các dãy ghế danh dự, có ông Thống sứ Bắc Kỳ chủ tọa, với tất cả các nhân vật cao cấp Pháp Việt ở Hà Nội, đa số là Tây và Đầm. Còn chúng tôi là sinh viên thì chen nhau đứng chật bao lơn từng trên, – theo tiếng thông dụng các rạp hát lúc bấy giờ gọi là trên “chuồng gà” (poulailler). Tôi đứng với một đám nam sinh và nữ sinh trường Thuốc và Sư phạm, phía bên trái. Có một cô bạn cứ ho từng cơn, khiến chúng tôi rất bực mình.
Sau lời giới thiệu của viên Giám đốc Học Chánh Bắc Kỳ, ông Phạm Quỳnh từ phía sau giảng đường ung dung bước ra diễn đàn. Ông rất bình tĩnh, thong thả, bệ vệ.
Lúc bấy giờ không có micro, nhưng Phạm Quỳnh cất tiếng nói rõ ràng, chững chạc, êm ái. Chúng tôi ở trên “chuồng gà” nghe rất rõ. Đứng nói mấy lời cảm ơn các quan khách, rồi ông thong thả ngồi xuống ghế, trước chiếc bàn gỗ gụ lớn, trải tấm khăn nhung xanh màu da trời.
Ông đủng đỉnh gỡ cặp kiếng trắng gọng bạc để xuống bàn, lấy cặp kiếng trắng gọng vàng đeo vào, và rút trong túi áo ra một xấp giấy đánh máy.
Ông cất tiếng nói. Ông không chúi mũi xuống giấy như nhiều diễn giả khác đọc như đọc bài văn tế. Ông cũng không nói lung tung lộn xộn như một số diễn giả khác không theo một dự thảo hoạch định trước. Ông đã viết sẵn bài thuyết trình, rồi theo đó mà nói, thỉnh thoảng mới ngó vào giấy, nói rất tự nhiên, rất lưu loát, văn hoa… Tất cả đều phục ông Phạm Quỳnh có tài hùng biện, hoạt bát, duyên dáng mà vẫn nghiêm nghị. Lần đầu tiên chúng tôi được nghe một người Việt Nam diễn thuyết trước công chúng tri thức Việt Pháp trên 500 người, bằng tiếng Pháp lưu loát hấp dẫn như thế. Hôm ấy, ông Phạm Quỳnh đã gây được lòng khâm phục hoàn toàn của toàn thể thính giả Pháp và Việt.
Tôi ra về thỏa mãn. Từ đó về sau, cũng như hầu hết các bạn trẻ sinh viên, tôi đã đọc tất cả các sách của Phạm Quỳnh xuất bản. Tác phẩm của ông đều là những bài ông đã viết đăng trong Nam Phong, và gom góp in ra thành sách. Dù nghèo túng đến đâu, chúng tôi cũng ráng để dành tiền mua sách của Phạm Quỳnh. Chúng tôi đã học hỏi được rất nhiều trong các sách của ông. Chúng tôi cũng chịu ảnh hưởng nhiều trong lối hành văn và cách diễn đạt tư tưởng của bậc văn sĩ tài hoa ấy”.
Trong phần cuối của hồi ức về hai nhà văn tiền phong, thi sĩ Nguyễn Vỹ so sánh:
“Giới trí thức Hà Nội Tiền chiến thường so sánh hai nhân vật này, vì họ hoàn toàn trái ngược nhau. Trên bình diện chính trị, ông Phạm Quỳnh chủ trương Bảo Hoàng, yêu cầu chính phủ thuộc địa áp dụng đúng đắn Hiệp ước Patenôtre (1884), trao trả quyền hành chánh cho Bảo Đại ở cả Trung và Bắc Kỳ, theo một hiến pháp do Phạm Quỳnh soạn thảo, và được các báo Pháp đương thời gọi là “Constituion Pham Quynh”.
Nguyễn Văn Vĩnh, trái lại, đòi thực hành cho Trung Bắc Kỳ một chính sách mà ông gọi là Administration Directe (trực trị), nghĩa là dẹp bỏ ngôi vua, để Pháp trực tiếp cai trị với sự tham gia hành chánh trực tiếp của nhân dân do Thượng, Hạ Nghị Viện của nhân dân bầu cử. Người Pháp dĩ nhiên ủng hộ Phạm Quỳnh.
Chủ trương “trực trị” của Nguyễn Văn Vĩnh bị Phạm Quỳnh đả kích kịch liệt trong các bài xã thuyết của ông đăng trong nhật báo Pháp France-Indochine ở Hà Nội. Để “an ủi” Nguyễn Văn Vĩnh, Chủ nhiệm kiêm Chủ bút báo L’Annam Nouveau, Chính phủ Pháp tặng ông Bắc Đẩu Bội Tinh (Légion d’Honneur) là huy chương cao quý nhất của Pháp, nhưng ông Vĩnh không nhận.
Vụ huy chương này hoàn toàn giữ kín, dư luận dân chúng không hay biết gì, nhưng các giới trí thức và cách mạng ở Hà Nội đều biết rõ, và sự khí khái của ông Nguyễn Văn Vĩnh cương quyết từ khước “Légion d’Honneur” của Pháp, được các giới ấy, nhất là giới trí thức thanh niên, nhiệt liệt hoan nghênh.
Uy tín của Nguyễn Văn Vĩnh càng được tăng cao từ vụ này.
Về phương diện thuần túy văn học, Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh cũng hoàn toàn trái ngược nhau.
Nam Phong Tạp chí, nguyên là do tiền trợ cấp của Chính phủ thuộc địa Pháp, và người sáng lập là Giám đốc Chánh trị vụ của Phủ Toàn quyền Đông Dương, tức cũng như Tổng Giám đốc Mật thám Phủ Toàn quyền.
Phạm Quỳnh có một lối văn Hàn lâm (style académique) rất văn hoa, nhưng chững chạc, nghiêm nghị, bệ vệ, văn Pháp cũng như văn Việt; khác hẳn lối văn giản dị thiết thực hoàn toàn bình dân của Nguyễn Văn Vĩnh, văn Pháp cũng như văn Việt của ông Chủ nhiệm L’Annam Nouveau và cựu Chủ bút Trung Bắc Tân văn, Đông Dương Tạp chí, thật là lưu loát, và thường châm biếm, đúng với truyền thống hài hước của tinh thần dân tộc Việt Nam. Văn Phạm Quỳnh có rất ít điểm hài hước hóm hỉnh đó.
Thanh niên Tiền chiến ưa tìm học hỏi nơi tri thức uyên thâm và văn chương hoa mỹ của Phạm Quỳnh, gác ngoài lập trường chính trị của ông, cũng như họ thích những kinh nghiệm về văn hóa tổng hợp, khoáng đạt, cởi mở, bình dân của Nguyễn Văn Vĩnh. Cho đến nếp sống cá nhân, gia đình, xã hội của hai người cũng cách biệt nhau xa.
Phạm Quỳnh đeo kính trắng gọng vàng, ngồi chiếc xe kéo nhà quí phái, đi đứng thong dong, nói cười mực thước, chỉ giao thiệp với hạng thượng lưu, vì vậy mà các giới thanh niên trí thức Hà Nội gọi ông là “Kính trắng Tiên sinh” và “Học phiệt”.
Trái lại, Nguyễn Văn Vĩnh thích mặc sơ mi, quần “short”, cỡi xe môtô, giao du với đủ các giới, nói to, cười lớn, ưa đánh tổ tôm, săn bắn và có óc phiêu lưu.
Ông Vĩnh có hai vợ, một bà Bắc, một bà Đầm lai, cả hai đều phải lo giúp đỡ ông, và gia đình ông tuy thuộc về giới thượng lưu nhưng luôn luôn túng thiếu.
Công việc kinh doanh của ông về sách báo, xuất bản, rất là rộng lớn mà phương diện tài chánh lại không được dồi dào.
Phạm Quỳnh, trái lại, được sung túc, ra vẻ danh gia thế phiệt, đại trưởng giả.
Kết cuộc số phận, hai ông đều là nạn nhân của hai thái cực: Phạm Quỳnh ra làm quan, lên bực Đại thần được tín dụng bên cạnh ngai vàng, quyền cao chức cả tột bực, để rồi, sau cùng, bị chết thê thảm… Nguyễn Văn Vĩnh bị phá sản, vì sự nghiệp văn chương rủ một người bạn Pháp, cũng có óc phiêu lưu văn nghệ như ông, đi qua Lào để tìm mỏ vàng! Sau cùng, ông chết ở Lào vì bệnh sốt rét rừng, xa quê hương, gia đình, bạn hữu, như một “bôhêmiên” bất cần định mạng”.
Hoàng Yên Lưu
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
12 Tháng Tám 2012(Xem: 13465)
Diễn tả một người lính trẻ trong lúc vượt qua ngọn đồi, phút chốc dừng lại quì cúi đầu cầu nguyện cho những vong hồn của đồng đội đã bỏ mình đêm qua.
09 Tháng Tám 2012(Xem: 9650)
Nhân bản là tình thương Không đương cự được súng đạn Nhưng súng đạn rồi sẽ hết Tình người còn dài lâu
08 Tháng Tám 2012(Xem: 8763)
Xin cùng nhau mở Hội nghị Diên Hồng, thực thi truyền thống Quyết chiến – Hy sinh, trước đánh đuổi bọn thái thú Tô Định, sau đánh tan xâm lược Tàu.
05 Tháng Tám 2012(Xem: 17077)
Bốn tuần huấn nhục mới thật gay go. Mở mắt ra là chạy! Ôm cây Garant M1 nặng 4 kí rưởi chạy đông, chạy tây từ phòng học nầy qua phòng học khác cả ngày mới thật là khổ.
01 Tháng Tám 2012(Xem: 9616)
không bằng kinh nghiệm chiến trường mà bằng tấm lòng ngạo nghễ của tuổi trẻ Việt Nam Chiến đấu và chết nhẹ tựa lông hồng HỒN TỬ SĨ, GIÓ Ù Ù THỔI
31 Tháng Bảy 2012(Xem: 9941)
Chúng tôi cũng tin chắc rằng những kẻ ác độc, gian tham, thích làm cho người khác đau đớn, lo sợ, khổ nhục, chúng sẽ không biết đến Thiên-Đàng là gì và cũng không tìm được Thiên-Đàng trong đời này hay trong những kiếp sau./.
31 Tháng Bảy 2012(Xem: 70993)
Mẹ Nghĩa từ trăm năm trước liều thân chống thực dân Tây Mẹ Liêng ngày nay lấy thân làm đuốc thiệu rụi tà quyền cọng sản bất nhân
29 Tháng Bảy 2012(Xem: 10737)
Những mẫu tiền cũ được sưu tầm. Một tư liệu quý giá. Chân thành đồng hương đã đóng góp cho trang nhà
29 Tháng Bảy 2012(Xem: 9410)
Năm vòng tròn với năm mầu sắc khác nhau cũng nói lên những đặc tính của Olympia: Hoà bình, Vui tươi, Khoẻ mạnh, Chân thành và Tình bằng hữu.
28 Tháng Bảy 2012(Xem: 8777)
Trước thái độ “ Hèn với giặc, Ác với dân “ ngày càng ù lì, ngoan cố của tà quyền cs, gần đây dấy lên dư luận: Ngày nào giặc Tàu ra mặt xâm lăng mà ngụy quyền cs cúi đầu hàng phục thì chính quân đội nỗi loạn, lật đổ bạo quyền cs chớ không phải ai khác!
26 Tháng Bảy 2012(Xem: 9663)
Nếu như nữ nhân viên biên phòng Irak cương quyết không cho phép cô hành khách trẻ đẹp mang hộ chiếu Nhật đem chiếc radio bỏ túi Panasonic RF 082 vào máy bay thì đã chẳng xảy ra tai họa.
20 Tháng Bảy 2012(Xem: 9280)
Dân tộc Việt KHÔNG CẦN một khẩu hiệu nào khác ngoài danh tự: VIỆT NAM. Ngày hôm qua, tên độc tài Ác Sát xứ Lybia đã mang đầu máu trốn chạy khỏi quê hương và đồng bào của y!
17 Tháng Bảy 2012(Xem: 15828)
Những năm về trước, người ta thờ ơ việc làm đẹp đôi bàn tay, nên ngành Nail ở Pháp không thịnh hành. Mấy năm trở lại đây, ngành Nail tại Paris mỗi ngày một phát triển.
16 Tháng Bảy 2012(Xem: 10853)
UAV MQ-9 "Tử thần" là một loại máy bay không người lái vừa có khả năng sát thương, vừa có khả năng tình báo, giám sát và trinh sát. Ngay sau khi vừa kiểm tra hoạt động của MQ-9, không quân Mỹ đã quyết định đưa máy này vào chiến đấu, đồng thời thành lập phi đội tấn công UAV "Tử thần"
11 Tháng Bảy 2012(Xem: 8768)
Nhân bạn Thiên Đức Tự đề cập về giác quan thứ sáu hay linh tính Tui xin kể chuyện tánh linh pha thêm chút đỉnh bùa phép
10 Tháng Bảy 2012(Xem: 8952)
Việt Nam, Quê hương ta Sống nô lệ bảy mươi năm qua Nào vùng lên, Thanh niên ơi! Đất nước gọi vang nơi nơi
03 Tháng Bảy 2012(Xem: 8906)
Hy vọng đây là màn mở đầu khởi phát cuộc nổi dậy toàn dân trước khi bọn hoạt đầu trong nước và hải ngoại lập lại tai họa “ Chánh phủ Liên hiệp cò cưa” năm 1945 di họa cho Đất nước và Dân tộc đến ngày nay.
01 Tháng Bảy 2012(Xem: 10257)
Một vài dữ kiện khá lý thú về đoạn xa lộ được xem là tối tân nhất của Hoa Kỳ này: Xa lộ 105, còn được gọi là Century Freeway hay Glenn Anderson Freeway, được đề án vào năm 1958, và được thêm vào dự án Interstate Highways cuối thập niên 1960s.
26 Tháng Sáu 2012(Xem: 9243)
Bài được ĐH chuyển ̣đến, nếu cần thiết quý đồng hương và thân hữu đọc cho biết
23 Tháng Sáu 2012(Xem: 9958)
Sống ở xứ người, phải học tập ngôn ngữ và văn hóa xứ người là chuyện bình thường. Nhưng sống ở xứ người mà tập cho người bản xứ học tập ngôn ngữ và văn hóa xứ mình là một chuyện lạ và ngược đời.
22 Tháng Sáu 2012(Xem: 10075)
Nhớ những cái cần nhớ, quên những cái nên quên, sống cuộc sống cởi mở, trong lòng không vướng mắc thì cuộc sống này sẽ thật tươi đẹp
22 Tháng Sáu 2012(Xem: 9848)
Điều dễ làm nhất chính là BỚI MÓC LỖI LẦM CỦA NGƯỜI KHÁC Sai lầm lớn nhất chính là TỪ BỎ MỤC ĐÍCH CAO ĐẸP CỦA MÌNH
21 Tháng Sáu 2012(Xem: 9959)
Con đường dân tộc hiện đang bị tảng đá cọng sản chặn đường Hãy vùng lên lật đổ nó đi dể lấy lối đi CON ĐƯỜNG VIỆT NAM, DÂN TỘC VIỆT NAM ĐI
16 Tháng Sáu 2012(Xem: 9484)
Thanh niên là NGƯỜI CHỦ TƯƠNG LAI của Đất nước Vận mệnh Đất Nước là ở trong tay các Bạn Hãy hành xử đúng tư cách là NGƯỜI CHỦ Với Tâm Niệm theo Truyền thống DIÊN HỒNG
09 Tháng Sáu 2012(Xem: 11094)
“Chỉ có cầm thú mới quay lưng lại trước nỗi bất hạnh của đồng loại và lo chăm chút cho bộ lông của chúng”.Đảng Cộng Sản Việt Nam không những quay lưng trước nỗi bất hạnh của đồng loại, mà chính họ là gieo rắc sự bất hạnh cho đồng loại, đồng bào
08 Tháng Sáu 2012(Xem: 10501)
Nếu ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày đánh dấu sự “cuốn cờ” tháo chạy nhục nhã của cường quốc Hoa Kỳ tại NỬA NƯỚC VIỆT NAM thì, 37 năm sau, ngày 4 tháng 6 năm 2012 lại là ngày lịch-sử đánh dấu sự trở lại đầy vinh quang của đại cường quốc Hoa Kỳ trên TOÀN THỂ NƯỚC VIỆT NAM.
08 Tháng Sáu 2012(Xem: 9478)
Quan trọng nhất, hãy chú ý đến các cựu chiến binh và những người sống sót trong cộng đồng, hãy ghi lại lời kể của họ khi mình còn cơ hội. Nếu mình làm được như vậy thì may ra những hy sinh lớn lao của thảm kịch bi đát này sẽ không bị uổng phí.
07 Tháng Sáu 2012(Xem: 8968)
Thời kỳ hiện đại, với truyền thông điện tữ, mỗi người vừa là chiến sỉ cách mạng, vừa là lãnh đạo chính mình, căn cứ vào thông tin trên trang mạng, tự mình quyết định hành động cho kịp thời và ăn khớp với hành động của đám đông
06 Tháng Sáu 2012(Xem: 9226)
ở thời điểm đó, tác giả người nước ngoài hiểu biết giới hạn về cách viết tên và địa danh tiếng Việt; người viết tin rằng tên viết trong các phụ chú cạnh hình chụp và những tên tiếng Việt ở đây cũng chỉ là phỏng đoán từ tên không có dấu, ắt có một số sai lầm.
06 Tháng Sáu 2012(Xem: 10178)
Sự ra đi của một chế độ kéo theo nhiều thứ: con người, tài sản, nhà cửa, vườn tược, lịch sử… nhưng có cái bị lôi theo mà người ta không ngờ nhất lại là "cái chết của một ngôn ngữ". Đau lòng lắm thay!
06 Tháng Sáu 2012(Xem: 95117)
Chỉ còn hy vọng ngày mai Khi mọi lòng thức tỉnh Muốn sống còn phải vùng lên tự cứu Lang sói phải tiêu diệt Đừng quỵ lụy, van cầu!
06 Tháng Sáu 2012(Xem: 9444)
Đây là lúc từng đảng viên đảng Cộng Sản Việt Nam nên sám hối, trở về với dân tộc. Bài học của đảng Cộng Sản Liên Sô được “hạ cánh an toàn” nhờ không đàn áp nhân dân khốc liệt như đảng Cộng Sản Romania đáng để cho người Cộng Sản Việt Nam suy ngẫm.
04 Tháng Sáu 2012(Xem: 9540)
Xét cho cùng : chính sự thất bại và sự hy sinh cao cả tại Thiên An Môn đã khiến Đế Quốc Cộng sản không còn là hiểm họa khiến nhân loại có thể bị tận diệt với hiểm họa chiến tranh nguyên tử toàn diện.
04 Tháng Sáu 2012(Xem: 9187)
Rốt cuộc rồi thì: Saigon-Huế-Hà Nội cùng nắm tay nhau bước lên điểm hẹn: Niềm Ước Mơ Tripoli Bản Trường ca Cách mạng Dân tộc rồi cũng khảy lên nốt nhạc cuối cùng: Tripoli
02 Tháng Sáu 2012(Xem: 9219)
Hiện nay, bọn csvn đang tứ đầu thọ địch: Bên ngoài chúng bị cả Mỹ, Trung Cộng thúc ép như gọng kềm siết chặc. Bên trong, vấn đề cưởng chế đất đai bùng nỗ, kinh tế đang trên bờ vực thẩm, giống như cuồng phong, vũ bảo chực chờ càn quét hàng triệu gia đình vào cơn tuyệt vọng
31 Tháng Năm 2012(Xem: 12853)
Có một nơi, rất độc đáo, đã góp phần làm nên bản sắc Sài Gòn: đó là Phố cổ Chợ Lớn. Nghĩa là, chưa tới nơi này, chưa gọi được là biết tới Sài Gòn, mặc dù Phố cổ Chợ Lớn nằm tận quận 5, quận 10, nghĩa là ở một không gian địa lý xa trung tâm Sài Gòn.
31 Tháng Năm 2012(Xem: 9191)
Chúng tôi lúc nào cũng muốn đội các ngài lên đầu, xưng tụng các ngài là sư, là sĩ, để nghe lời chỉ giáo; nhưng xin tha mạng, đừng mang ảo tưởng dụ chúng tôi quên tội ác của Cộng!
30 Tháng Năm 2012(Xem: 9413)
Thơ là máu đào hòa nước mắt Khóc thương Đất nước, họa diệt vong Thơ là trái tim rướm máu Thổn thức vì đồng bào khốn khó lầm than
29 Tháng Năm 2012(Xem: 10396)
Vào ngày cuối cùng của cuộc chiến, khi mà mọi giới đều hiểu rằng không còn gì có thể cứu vãn được nữa thì người chiến sĩ VNCH vẫn chiến đấu dũng cảm
29 Tháng Năm 2012(Xem: 9794)
Hiện tại đảng CSVN vẫn là một trở ngại cho sự đoàn kết dân tộc vì chủ trương độc tài và thù hận. Với xu thế và những chuyễn biến về hướng dân chủ hóa toàn cầu, đảng CSVN sẽ đi về đâu trong tiến trình này?
29 Tháng Năm 2012(Xem: 10224)
Dân Nam bộ vốn hiền hòa, nhẫn nhục, nhưng có mức độ, nhất là dân miệt thứ từng lấy mác đâm lủng bụng cò Tây. Đến một lúc, tức nước, vỡ bờ là...chém! Rồi đây, cục bướu “ Đất đai” sẽ tới ngày bừng vỡ. Cường quyền chết chôn thây vì đất có ngày!
28 Tháng Năm 2012(Xem: 10345)
Người ta cũng thấy trên các báo chí ở trong nước, những trang được gọi là “pháp luật” nói là đã “phá những tổ chức buôn người”; nhưng lại không dám nói đến những tên đứng đầu của tổ chức buôn người này, là những tên cán bộ cao cấp của đảng Cộng sản Việt Nam.
26 Tháng Năm 2012(Xem: 10357)
Chữ “nhân” tuy chỉ có hai nét, một nét phẩy một nét mác, nhưng lại không dễ viết. Hai nét này hàm nghĩa phong phú, triết lý sâu xa, không viết đúng được một nét thì không thể gọi là một đời người hoàn chỉnh đúng với ý nghĩa chân thực.
25 Tháng Năm 2012(Xem: 9314)
Miền Nam, quê tôi thuở ấy Dù chiến tranh đổ máu lẽ nào Quân dân sát cánh nhau chung chịu Quyết gìn làng, giữ xóm bình yên
24 Tháng Năm 2012(Xem: 14627)
Cho dù núp dưới cái hào quang chiến thắng “đánh Tây, đuổi Mỹ” - cho dù che giấu, lấp liếm, giải thích thế nào chăng nữa - thì dân miền Nam (gồm cả Nam lẫn Bắc theo chế độ Tự Do) vẫn thấy một sự thật.
23 Tháng Năm 2012(Xem: 14845)
Giây phút tưởng nhớ Việt-Nam Cộng-Hòa. Có tiền cũng không mua được tài liệu quý giá này
23 Tháng Năm 2012(Xem: 11110)
Trong cái xao lãng bỗng có ý nghĩ muốn tìm lại, noái lại tiếng noái của thời cũ rích cũ rang nhưng đằm thắm đó . Cho nên chỉ xin được ghi lại đây những gì còn nhớ mài mại, để gọi là khơi lại chút âm thanh của những ngày xưa cũ.
22 Tháng Năm 2012(Xem: 9835)
Nếu quí vị thật lòng vì dân, vì nước, hãy dũng mãnh đứng lên, làm ngọn đuốc soi đường để đồng bào các giới nương theo, vùng lên tự cứu mình, cứu nước. Đó mới thật là ăn năn, sám hối chớ không phải là những lời đãi bôi, sáo rỗng.
20 Tháng Năm 2012(Xem: 10082)
Một khi mà giới trẻ nhận thức được sụ cách biệt giữa thể chế “nhân bản” truyền thống dân tộc và chế độ độc tài, toàn trị bạc ác, bất nhân thì cuộc chiến giũa “thiện”, 'ác” sẽ đi vào kết cuộc dù là bao nhiêu lâu chăng nữa.