5:32 CH
Thứ Tư
17
Tháng Tư
2024

Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh - Hoàng Yên Lưu

23 Tháng Mười 201312:00 SA(Xem: 11185)

Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh

vanghehy-large-content
Hoàng Yên Lưu

Hai nhà văn có công đầu xây dựng nền văn học quốc ngữ, đặc biệt là báo chí, và có nhiệt tâm cải thiện văn hóa, xã hội của chúng ta trong giai đoạn giao thời giữa Đông và Tây hồi đầu thế kỷ XX là Nguyễn văn Vĩnh (1882-1936) và Phạm Quỳnh (1892-1945).
Cả hai đều uyên thâm hai nền học cổ-kim, đều xuất thân hạng đầu trường Thông ngôn, bước đầu sự nghiệp đều bỏ quan trường sang làm báo và cùng qua đời vào tuổi trung niên, tuy nhiên ông Vĩnh dù lớn hơn ông Quỳnh 10 tuổi nhưng cấp tiến hơn ông Quỳnh trong sinh hoạt cũng như về quan điểm và văn phong.
Sự khác biệt giữa hai nhà văn tiền phong kỳ cựu trên được Giáo sư Nghiêm Toản trong bộ Việt Nam Văn học sử trích yếu so sánh như sau:
“Nguyễn văn Vĩnh nổi tiếng dịch rất nhiều sách Tây và có công hội họp các nhà văn tân, cựu cùng thời, lập nên một cơ quan văn học (Đông dương tạp chí) trong buổi quốc ngữ mới sơ khai, gây thành phong trào yêu mến tiếng Việt trong hàng thanh niên trí thức.
Ông dịch đủ các loại: thơ ngụ ngôn, kịch, truyện dài, truyện ngắn, song hay nhất là mấy bộ: Gil Blas de Santillane, Manon Lescaut (Mai nương lệ cốt), Les Trois Mousquetaires (Ba người ngự lâm pháo thủ), Les Misérables (Những kẻ khốn nạn), toàn là văn phẩm có giá trị và rất nổi danh.
Ông dịch thật tài, chỉ cần thoát ý, không cần đúng từng chữ từng câu; lời văn ông có tính chất Việt nam hoàn toàn, làm cho hứng thú kẻ đọc tăng lên; nhiều đoạn ông dịch sát nghĩa vô cùng và văn linh hoạt tự nhiên; chúng ta không ngờ rằng trước đây 30 năm (kể tới năm cuối tiền-bán thế kỷ XX) chữ quốc ngữ mới ở bước đầu, đã có thể diễn dịch được hết ý nghĩa tinh thần câu văn Pháp.
Phạm Quỳnh khác hẳn Nguyễn văn Vĩnh, vì ông chuyên về mặt tư tưởng và lưu ý khảo các học thuyết Thái Tây để luyện cho quốc văn có thể phô diễn được những ý niệm mới; văn phẩm của ông đều đăng ở Nam Phong tạp chí rồi sau in lại thành sách trong Nam Phong tùng thư.
Phần dịch có: Phương pháp luận của Descartes, Đời đạo lý của Paul Carton… Trứ thuật có: luận thuyết, ký sự (Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam kỳ, Pháp du hành trình nhật ký…).
Song trong văn nghiệp của ông, loại khảo cứu mới là phần quan trọng. Xin tạm kể:
- Về phía Pháp: học thuyết Montesquieu, Voltaire, Rousseau… chính trị nước Pháp, Văn minh luận, Thế giới tiến bộ sử.
- Về phía Á đông và Việt Nam: Người quân tử trong đạo Khổng, Phật giáo lược khảo, Hán Việt văn tự, Ca dao tục ngữ, Việt nam thi ca, Văn chương lối hát Ả đào…
Văn ông Vĩnh giản dị nhẹ nhàng, văn ông Quỳnh chắc chắn trang nghiêm; cho nên ta có thể nói văn ông Vĩnh dễ phổ cập trong đám dân thường, còn văn ông Quỳnh có tính chất đạo mạo của nhà học giả”.
Giữa hai ngôi sao văn học đầu thế kỷ XX, Phạm Quỳnh và Nguyễn văn Vĩnh, thì người đương thời lớp lớn tuổi, có khuynh hướng bảo thủ, trọng ông Quỳnh hơn ông Vĩnh. Nhưng với đám trẻ tuổi của thế hệ 1932 như Vũ Bằng (1913-1984), Nguyễn Vỹ (1912-1971)… lại tỏ ra thích ông Vĩnh hơn ông Quỳnh. Ta hãy thử đọc lại hồi ký Văn thi sĩ tiền chiến (ký ức văn học Khai trí xb-Saigon-1970) của Nguyễn Vỹ khi nhà thơ so sánh hai tay kiệt liệt trên văn đàn đã kể trên, hy vọng biết thêm về họ và ảnh hưởng của họ đối với độc giả và giới cầm bút đương thời:
Tác giả những vần thơ Bạch nga, nhớ lại lần đầu tiên trông thấy Nguyễn văn Vĩnh:
“Hồi hãy còn là một sinh viên bé nhỏ, tôi đã coi Nguyễn Văn Vĩnh như bậc Đại Nhân, siêu quần bạt tụy, tài trí vô song. Chỉ vì tôi đã đọc hết của ông bản dịch bộ sách LES MISÉRABLES của VICTOR HUGO. Trước đó, tôi đã đọc vài bản dịch Chinh Phụ Ngâm ra tiếng Pháp, bài Le Lac ra tiếng Việt, tôi đã không được thỏa mãn. Từ khi đọc mấy bài Fables de La Fontaine của Nguyễn Văn Vĩnh dịch ra Việt ngữ, và bộ sách dịch “Những kẻ khốn nạn” của ông rất là vĩ đại, thì mỗi lần chỉ thấy cái tên của ông tôi đã cúi đầu khâm phục rồi.
Vào khoảng năm 1930, báo L’Annam Nouveau của ông bằng Pháp văn ra đời. Tôi mua ngay từ số 1, cũng như các bạn trẻ ham học hồi đó. Dù là sinh viên nghèo, chúng tôi cũng ráng mua cho được, mỗi tuần hai kỳ, các số báo L’Annam Nouveau cho đến khi nó tự đóng cửa, vì ông Vĩnh bị vỡ nợ.
Mê Việt văn của ông, thích cả Pháp văn của ông, tôi chỉ ao ước được gặp ông một lần, được hầu chuyện với ông, dù trong một tiếng đồng hồ. Một buổi chiều vào khoảng ba giờ, một người bạn cùng tôi đang đi trên vỉa hè phố Hàng Gai, bỗng người bạn chỉ tôi một ông to béo, mặc âu phục trắng đội mũ trắng bự giống như cái “mũ thuộc địa” (casque colonial của Tây hồi đó), ngồi trên chiếc xe môtô kềnh càng, nổ bình bịch và kêu rầm rầm, từ hàng Bông chạy thẳng xuống hàng Gai. Chúng tôi đứng lại ngó ông. Lúc ông chạy vụt ngang qua chúng tôi, tôi cúi đầu chào. Ông không trông thấy. Nhưng tôi vui sướng vô cùng. Tôi đã thấy mặt nhà văn Nguyễn Văn Vĩnh.
Trong ba năm còn là cậu sinh viên nhỏ bé, tôi chỉ thấy ông Nguyễn Văn Vĩnh có một lần đó thôi. Nhưng hình ảnh của ông nhà văn to lớn kia đã in sâu vào trong trí nhớ của tôi, và mỗi khi tôi nghĩ đến ông, hay đọc một bài báo, một quyển sách của ông, thì, lạ quá, tôi cứ nghe tiếng xe môtô nổ bình bịch và chạy rầm rầm bên tai tôi”.
Còn chân dung Phạm Quỳnh được Nguyễn Vỹ hồi ức qua lăng kính tình cảm bản thân:
“Một hôm, bọn học sinh chúng tôi, được các giáo sư cho biết là chiều thứ bảy ông Phạm Quỳnh sẽ diễn thuyết tại giảng đường của trường Cao đẳng, chúng tôi nô nức đợi đến chiều ấy để nghe.
Ông chủ nhiệm tạp chí Nam Phong sẽ diễn thuyết bằng tiếng Pháp, về một đề tài rất hấp dẫn: Le Paysan Tonkinois à Travers le Parler populaire (Người dân quê Bắc Việt, xét qua ca dao bình dân).
Kể ra chúng tôi đọc tạp chí Nam Phong đã lâu lắm rồi. Riêng tôi, tôi đã được đọc nó thỉnh thoảng một đôi quyển, của Thầy tôi mượn ở đâu về, vì thời bấy giờ tạp chí Nam Phong ít có bán ở các tiệm sách. Hầu hết độc giả Nam Phong là những quan lại, hoặc một số “trí thức thượng lưu” và “trung lưu” mua năm. Khuynh hướng chính trị gác hẳn ra một bên, chỉ đứng về phía văn học mà thôi thì chúng tôi, tất cả thanh niên trí thức lúc bấy giờ, đều phục cái tài cao học rộng của ông Phạm Quỳnh.
Chữ Pháp, ông viết rất trôi chảy, với một lối hành văn rất bóng bẩy văn hoa, vừa giản dị, khúc chiết, vừa dồi dào ý tưởng.
Việt văn của ông cũng thế. Câu văn rất được săn sóc, điêu luyện theo như hành văn Pháp, rất thận trọng trong việc dùng chữ. Ông đưa đẩy ngòi bút dịu dàng, chững chạc, không dây dưa rườm rà, hoặc nặng nề theo kiểu một số nhà Nho, như ông cử Dương Bá Trạc hay ông Lê Dư, cũng không cứng rắn và đôi khi quá giản dị, thực tế, như cú pháp của ông Nguyễn Văn Vĩnh.
Văn của Phạm Quỳnh là lối văn quí phái, “lối văn hàn lâm viện” như người Pháp nói.
Không thể nào không nhìn nhận rằng thời bấy giờ, ai đọc văn của Phạm Quỳnh cũng đều phải phục văn tài của ông.
Nhất là tụi thanh niên chúng tôi. Thỉnh thoảng chúng tôi cuốc bộ trên vỉa hè phố Hàng Da, thấy ông Phạm Quỳnh ngồi chễm chệ trên chiếc xe kéo nhà, sơn màu gạch bóng loáng, từ trong cổng nhà ông đi ra, hoặc đi đâu về.
Đi xe kéo nhà như thế, là sang nhất lúc bấy giờ. Ông mặc quốc phục Việt, áo dài the đoạn, hoặc Satin. Không bao giờ Phạm Quỳnh mặc Âu phục, chân luôn luôn mang giày Escarpin (một kiểu giày của những người trưởng giả thời ấy), đầu chít khăn đóng, mắt đeo kính trắng. Vì điệu bộ quí phái ra vẻ bệ vệ của ông mà đám thanh niên trí thức chế nhạo ông, đặt cho ông cái biệt hiệu là “Kính trắng tiên sinh”. Tiếng Bắc, kính tức là kiếng trong tiếng Nam…
Hôm chiều thứ bảy ấy, ông Phạm Quỳnh diễn thuyết bằng tiếng Pháp tại giảng đường Cao đẳng Đông Dương ở Hà Nội, đường Bobillot, sinh viên đến nghe rất đông. Ở từng dưới, là các dãy ghế danh dự, có ông Thống sứ Bắc Kỳ chủ tọa, với tất cả các nhân vật cao cấp Pháp Việt ở Hà Nội, đa số là Tây và Đầm. Còn chúng tôi là sinh viên thì chen nhau đứng chật bao lơn từng trên, – theo tiếng thông dụng các rạp hát lúc bấy giờ gọi là trên “chuồng gà” (poulailler). Tôi đứng với một đám nam sinh và nữ sinh trường Thuốc và Sư phạm, phía bên trái. Có một cô bạn cứ ho từng cơn, khiến chúng tôi rất bực mình.
Sau lời giới thiệu của viên Giám đốc Học Chánh Bắc Kỳ, ông Phạm Quỳnh từ phía sau giảng đường ung dung bước ra diễn đàn. Ông rất bình tĩnh, thong thả, bệ vệ.
Lúc bấy giờ không có micro, nhưng Phạm Quỳnh cất tiếng nói rõ ràng, chững chạc, êm ái. Chúng tôi ở trên “chuồng gà” nghe rất rõ. Đứng nói mấy lời cảm ơn các quan khách, rồi ông thong thả ngồi xuống ghế, trước chiếc bàn gỗ gụ lớn, trải tấm khăn nhung xanh màu da trời.
Ông đủng đỉnh gỡ cặp kiếng trắng gọng bạc để xuống bàn, lấy cặp kiếng trắng gọng vàng đeo vào, và rút trong túi áo ra một xấp giấy đánh máy.
Ông cất tiếng nói. Ông không chúi mũi xuống giấy như nhiều diễn giả khác đọc như đọc bài văn tế. Ông cũng không nói lung tung lộn xộn như một số diễn giả khác không theo một dự thảo hoạch định trước. Ông đã viết sẵn bài thuyết trình, rồi theo đó mà nói, thỉnh thoảng mới ngó vào giấy, nói rất tự nhiên, rất lưu loát, văn hoa… Tất cả đều phục ông Phạm Quỳnh có tài hùng biện, hoạt bát, duyên dáng mà vẫn nghiêm nghị. Lần đầu tiên chúng tôi được nghe một người Việt Nam diễn thuyết trước công chúng tri thức Việt Pháp trên 500 người, bằng tiếng Pháp lưu loát hấp dẫn như thế. Hôm ấy, ông Phạm Quỳnh đã gây được lòng khâm phục hoàn toàn của toàn thể thính giả Pháp và Việt.
Tôi ra về thỏa mãn. Từ đó về sau, cũng như hầu hết các bạn trẻ sinh viên, tôi đã đọc tất cả các sách của Phạm Quỳnh xuất bản. Tác phẩm của ông đều là những bài ông đã viết đăng trong Nam Phong, và gom góp in ra thành sách. Dù nghèo túng đến đâu, chúng tôi cũng ráng để dành tiền mua sách của Phạm Quỳnh. Chúng tôi đã học hỏi được rất nhiều trong các sách của ông. Chúng tôi cũng chịu ảnh hưởng nhiều trong lối hành văn và cách diễn đạt tư tưởng của bậc văn sĩ tài hoa ấy”.
Trong phần cuối của hồi ức về hai nhà văn tiền phong, thi sĩ Nguyễn Vỹ so sánh:
“Giới trí thức Hà Nội Tiền chiến thường so sánh hai nhân vật này, vì họ hoàn toàn trái ngược nhau. Trên bình diện chính trị, ông Phạm Quỳnh chủ trương Bảo Hoàng, yêu cầu chính phủ thuộc địa áp dụng đúng đắn Hiệp ước Patenôtre (1884), trao trả quyền hành chánh cho Bảo Đại ở cả Trung và Bắc Kỳ, theo một hiến pháp do Phạm Quỳnh soạn thảo, và được các báo Pháp đương thời gọi là “Constituion Pham Quynh”.
Nguyễn Văn Vĩnh, trái lại, đòi thực hành cho Trung Bắc Kỳ một chính sách mà ông gọi là Administration Directe (trực trị), nghĩa là dẹp bỏ ngôi vua, để Pháp trực tiếp cai trị với sự tham gia hành chánh trực tiếp của nhân dân do Thượng, Hạ Nghị Viện của nhân dân bầu cử. Người Pháp dĩ nhiên ủng hộ Phạm Quỳnh.
Chủ trương “trực trị” của Nguyễn Văn Vĩnh bị Phạm Quỳnh đả kích kịch liệt trong các bài xã thuyết của ông đăng trong nhật báo Pháp France-Indochine ở Hà Nội. Để “an ủi” Nguyễn Văn Vĩnh, Chủ nhiệm kiêm Chủ bút báo L’Annam Nouveau, Chính phủ Pháp tặng ông Bắc Đẩu Bội Tinh (Légion d’Honneur) là huy chương cao quý nhất của Pháp, nhưng ông Vĩnh không nhận.
Vụ huy chương này hoàn toàn giữ kín, dư luận dân chúng không hay biết gì, nhưng các giới trí thức và cách mạng ở Hà Nội đều biết rõ, và sự khí khái của ông Nguyễn Văn Vĩnh cương quyết từ khước “Légion d’Honneur” của Pháp, được các giới ấy, nhất là giới trí thức thanh niên, nhiệt liệt hoan nghênh.
Uy tín của Nguyễn Văn Vĩnh càng được tăng cao từ vụ này.
Về phương diện thuần túy văn học, Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh cũng hoàn toàn trái ngược nhau.
Nam Phong Tạp chí, nguyên là do tiền trợ cấp của Chính phủ thuộc địa Pháp, và người sáng lập là Giám đốc Chánh trị vụ của Phủ Toàn quyền Đông Dương, tức cũng như Tổng Giám đốc Mật thám Phủ Toàn quyền.
Phạm Quỳnh có một lối văn Hàn lâm (style académique) rất văn hoa, nhưng chững chạc, nghiêm nghị, bệ vệ, văn Pháp cũng như văn Việt; khác hẳn lối văn giản dị thiết thực hoàn toàn bình dân của Nguyễn Văn Vĩnh, văn Pháp cũng như văn Việt của ông Chủ nhiệm L’Annam Nouveau và cựu Chủ bút Trung Bắc Tân văn, Đông Dương Tạp chí, thật là lưu loát, và thường châm biếm, đúng với truyền thống hài hước của tinh thần dân tộc Việt Nam. Văn Phạm Quỳnh có rất ít điểm hài hước hóm hỉnh đó.
Thanh niên Tiền chiến ưa tìm học hỏi nơi tri thức uyên thâm và văn chương hoa mỹ của Phạm Quỳnh, gác ngoài lập trường chính trị của ông, cũng như họ thích những kinh nghiệm về văn hóa tổng hợp, khoáng đạt, cởi mở, bình dân của Nguyễn Văn Vĩnh. Cho đến nếp sống cá nhân, gia đình, xã hội của hai người cũng cách biệt nhau xa.
Phạm Quỳnh đeo kính trắng gọng vàng, ngồi chiếc xe kéo nhà quí phái, đi đứng thong dong, nói cười mực thước, chỉ giao thiệp với hạng thượng lưu, vì vậy mà các giới thanh niên trí thức Hà Nội gọi ông là “Kính trắng Tiên sinh” và “Học phiệt”.
Trái lại, Nguyễn Văn Vĩnh thích mặc sơ mi, quần “short”, cỡi xe môtô, giao du với đủ các giới, nói to, cười lớn, ưa đánh tổ tôm, săn bắn và có óc phiêu lưu.
Ông Vĩnh có hai vợ, một bà Bắc, một bà Đầm lai, cả hai đều phải lo giúp đỡ ông, và gia đình ông tuy thuộc về giới thượng lưu nhưng luôn luôn túng thiếu.
Công việc kinh doanh của ông về sách báo, xuất bản, rất là rộng lớn mà phương diện tài chánh lại không được dồi dào.
Phạm Quỳnh, trái lại, được sung túc, ra vẻ danh gia thế phiệt, đại trưởng giả.
Kết cuộc số phận, hai ông đều là nạn nhân của hai thái cực: Phạm Quỳnh ra làm quan, lên bực Đại thần được tín dụng bên cạnh ngai vàng, quyền cao chức cả tột bực, để rồi, sau cùng, bị chết thê thảm… Nguyễn Văn Vĩnh bị phá sản, vì sự nghiệp văn chương rủ một người bạn Pháp, cũng có óc phiêu lưu văn nghệ như ông, đi qua Lào để tìm mỏ vàng! Sau cùng, ông chết ở Lào vì bệnh sốt rét rừng, xa quê hương, gia đình, bạn hữu, như một “bôhêmiên” bất cần định mạng”.
Hoàng Yên Lưu
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
06 Tháng Ba 2013(Xem: 11301)
Nói là đơn giản, nhưng không phải ai cũng hiểu sâu xa ý nghĩa của câu nói đó. Người ta không bao giờ mơ ước bình thường. Hãy sống với cái mình đang có.
03 Tháng Ba 2013(Xem: 11365)
Những tên cộng sản sẽ tự đào mồ chôn chế độ cộng sản khi không còn bất cứ sự “viện trợ nhân đạo” nào đến từ các cộng đồng người Việt Quốc Gia.
02 Tháng Ba 2013(Xem: 15776)
Chúng ta xin thắp nến hương lòng và nguyện cầu cho hương linh người quá cố sớm siêu thoát. Người lính Không quân cho dù mai một bao giờ cũng thể hiện tinh thần “ không bỏ anh em, không bỏ bạn bè”.
02 Tháng Ba 2013(Xem: 11059)
Cũng giống như nhân dân Ai Cập, 10 ngàn người chiếm đóng Quảng trường Xanh Tahrir, 10 ngàn người dân nước Việt hẹn gặp nhau nơi Quảng trường Ba Đình cho tới khi Cách mạng Toàn Thắng mới thôi!
01 Tháng Ba 2013(Xem: 11245)
Như khi mới mở mắt chào đời VỚI TRÁI TIM ĐỎ HỎN NHƯ SON Đâu biết gì là NHÂN – NGÃ, cái tôi, cái ta gì?!
28 Tháng Hai 2013(Xem: 11425)
Bộ sưu tập rất quý hiếm, hãy lưu giữ Vang Bóng Một Thời Toàn cảnh cố đô Huế
27 Tháng Hai 2013(Xem: 16280)
Xin các thế hệ sau này, dù là bao nhiêu năm nữa, cũng đừng đem tấm hình của cuốn phim này mà đặt lên các bàn thờ, ở những chỗ trang trọng của các vị Anh Hùng Dân Tộc. Vì như thế, là phải tôn thờ hai diễn viên của cuốn phim ấy, chứ không phải là chân dung của cố Đại tá Hồ Ngọc Cẩn
27 Tháng Hai 2013(Xem: 11752)
Đây là cuộc diễn hành mừng Tết lần đầu tiên do Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam Cali phối hợp cùng tất cả hội đoàn, đoàn thể đứng ra tổ chức tại Little Saigon, thủ đô tinh thần của người Việt tỵ nạn Cộng sản trên toàn Thế giới,
26 Tháng Hai 2013(Xem: 11992)
Thú thật, cũng do mình “dân trí chưa cao” nên không nhìn ra được cái tầm chiến lược thuộc dạng đỉnh cao trí tuệ của cậu. Giang hồ có nói “Quân tử trả thù mười năm chưa muộn” đúng thật
26 Tháng Hai 2013(Xem: 11568)
Nếu không có cuộc nổi dậy vinh quang đó, dân tộc Việt bây giờ có lẽ đã nói tiếng Tàu và sẽ không có cái đảng cộng sản chết tiệt của ngày hôm nay!
26 Tháng Hai 2013(Xem: 10466)
Trong thời đại ngày nay, tiến trình dân chủ hóa toàn cầu là hướng tiến bất phục hoàn. Ngay như Tân Gia Ba giàu có mà độc tài, độc đảng vẫn đến hồi rạn nứt,
20 Tháng Hai 2013(Xem: 13159)
Lúc đầu pháo binh địch làm quân sĩ mất tinh thần không ít, may đạn 13O ly nổ to nhưng sức công phá không nhiều và sức tản đạn lớn nên ta tổn thất nhẹ, riêng các pháo thủ đều vô sự.
20 Tháng Hai 2013(Xem: 14635)
TUY “CHÂU CHẤU ĐÁ VOI” NHƯNG HẢI QUÂN TRUNG CỘNG BỊ THIỆT HẠI HAI CHIẾN HẠM, HAI BỊ THIỆT HẠI NẶNG, BỊ CHẾT: 1 ĐỀ ĐỐC, 4 HẠM TRƯỞNG... (THIỆT HẠI GẤP BA LẦN PHÍA VNCH)
17 Tháng Hai 2013(Xem: 12259)
Số tài sản hoang phí thật khổng lồ, nếu con số đó được sử dụng vào mục đích giúp người nghèo, bệnh nhân neo đơn có thêm điều kiện ăn cái tết đủ đầy thì ý nghĩa biết bao!
24 Tháng Giêng 2013(Xem: 11372)
Tuy nhiên, trên thực tế, nước Mỹ đã từng in ra đồng tiền mệnh giá 100.000 USD và đang cân nhắc đúc đồng xu mệnh giá 1 nghìn tỷ USD.
18 Tháng Giêng 2013(Xem: 13619)
Nghe tin xấu về HQ 10, Đô Đốc Trần Văn Chơn quá xúc động , ông gục đầu vào máy KW 58 nước mắt chảy dài.
15 Tháng Giêng 2013(Xem: 11837)
Sớm muộn gì quý vị cũng phải dùng biện pháp bất tuân dân sự (civil disobedience). Phải có phong trào bất tuân dân sự trên toàn quốc mới hy vọng thay đổi được chế độ cộng sản độc tài.
11 Tháng Giêng 2013(Xem: 12307)
Trông người lại nghĩ đến ta... Bao giờ Việt Nam tự sản xuất được một chiếc moped (xe gắn máy)?
08 Tháng Giêng 2013(Xem: 11875)
Kính mời quý đ̀ồng hương và thân hữu có thể viếng thăm toà thánh Vatican mọi lúc mọi nơi
07 Tháng Giêng 2013(Xem: 18396)
Lá Cờ vàng ba sọc đỏ hoàn toàn đối nghịch với lá Cờ đỏ sao vàng chẳng những về màu sắc, nhưng quan trọng nhất đối nghịch cả về ý nghĩa chính trị.
07 Tháng Giêng 2013(Xem: 12018)
Một website rất hữu dụng cho công dân Mỹ khi du lịch đến bất cứ nước nào trên thế giới có quan hệ ngoại giao với Mỹ. Trước khi khởi hành, quý vị nên mở một account ghi danh miễn phí qua website
07 Tháng Giêng 2013(Xem: 13032)
hai chiến sĩ ta ngã xuống thì có hai chiến sĩ khác nhào lên tiếp tục ghì súng chiến đấu chống giữ Hoàng Sa ngàn đời máu thịt của Việt Nam ta.
07 Tháng Giêng 2013(Xem: 11449)
Tình thế Đất nước ngặt nghèo như vậy nên phải cần gắp rút tiến hành cuộc nổi dậy lật đổ bạo quyền cs Hà Nội để trước khi tàu cộng ra tay
07 Tháng Giêng 2013(Xem: 12705)
Trong khi phía tranh đấu giải trừ độc tài toàn trị cộng sản ngày càng quyết liệt như vậy thì bạo quyền cọng sản lại lâm vào tình cảnh tứ đầu thọ địch.
04 Tháng Giêng 2013(Xem: 17510)
Nhưng khi đa số của Quốc hội Hoa Kỳ phản bội nạn nhân của Cộng sản xâm lược họ cũng phản bội 58 ngàn 200 lính Bộ binh, Hải quân và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đã dâng hiến mạng sống trong sự hy sinh cao quý nhất cho chính nghĩa này.
03 Tháng Giêng 2013(Xem: 12014)
Hệ thống định vị toàn cầu của Mỹ là hệ dẫn đường dựa trên một mạng lưới 24 vệ tinh được Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đặt trên quỹ đạo không gian
02 Tháng Giêng 2013(Xem: 31789)
Đến nay đã gần 30 năm. Hồ sơ quân sự cũng đã được tiết lộ (declassify). Rồi cuối cùng những hành động dũng cảm, anh hùng này đã được mọi người biết đến.
27 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 13424)
Xin trân trọng giới thiệu tập ảnh "Ô Nhục Ải Nam Quan" của tác giả Chân Mây đến cùng quý độc giả trong ngoài nước. Ven trời góc biển buồn chim cá Dạn gió dày sương tủi nước non
22 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 11212)
Điều thật sự mang lại cho tôi niềm vui trong mười tháng cuối cùng là tiếp xúc với người thân, bạn bè, những người chân thành chăm sóc tôi, cười và khóc cùng tôi
22 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 11267)
Tin mừng cho phái nữ Ung thư vú sẽ không cần mổ
18 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 11675)
Điều nên sợ, đáng sợ chính là mình không thể kham nhẫn được, không thể chịu đựng nỗi, không thể tự thắng mình, không thể tự chủ được bản thân
18 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 12213)
Lực lượng Sinh viên, học sinh là sức mạnh của tuổi trẻ. Một khi thức tỉnh, với lòng yêu nước nồng nàn, xông lên là tạo thành cơn giông bảo cách mạng quét tan lòai lang sói cs tham tàn.
17 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 15755)
Tết Mậu Thân năm 1968 muôn đời và mãi mãi ghi lại nỗi đau của dân tộc trong lịch sử Việt Nam cận đại
17 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 13625)
Quà tặng quý giá nhất bạn có thể trao tặng cho mọi người chính là LÒNG KHOAN DUNG
16 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 10584)
như một nén hương lòng, xin một lần nữa kính dâng lên các anh linh Đất Việt đã vị quốc vong thân. Đồng thành kính nguyện cầu, ngưỡng vọng hồn thiêng sống núi, anh linh Tổ Quốc
13 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 9854)
thế nhưng không giải thuởng nào đủ giá trị để trao cho “Bên thắng cuộc”.Vì nó quá lớn. Và chứa đầy máu cũng như nước mắt của toàn dân tộc.
13 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 10280)
Chừng nào bọn trùm công an cs lại mở cuộc thao dượt CHỐNG NỔI DẬY, LẬT ĐỔ thì khi đó công cuộc cách mạng Dân tộc đi vào giai đoạn chót: NỤ HOA SEN VIỆT NAM KHAI HOA RỰC RỞ
12 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 10248)
3.000 đồng ngày nay không mua đủ bó rau nấu canh! Mỉa mai thật! thì ra “tấc đất tấc vàng” thời nay của người nghèo là thế!
11 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 10944)
Bài hát này đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới vì là bài hát đặc trưng, độc đáo được hát bằng nhiều thứ tiếng trên thế giới
11 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 11242)
11 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 11218)
Cho nên hôm nay chúng ta long-trọng vinh-danh nhưng người chiến binh trong cuộc chiến này. Đây là một nghĩa-cử không những hoàn toàn đúng đắn mà còn cao-đẹp nữa
10 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 11578)
Những vị khách đến với cửa hàng này có lẽ không phải vì muốn thưởng thức hương vị của phở mà họ muốn thử sức với bát phở khổng lồ này
10 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 12109)
Bên cạnh ba ý niệm - chân, thiện, mỹ - cần thêm cột trụ thư tư là dụng, Với những bạn trên dưới thất thập, các con đã lớn cho nên lo âu về cần sa nên hướng đến thế hệ tiếp, cháu nội cháu ngoại. Năm mới yên vui đến với tất cả.
09 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 29735)
Một bác sĩ chuyên khoa tim cho biết, nếu mọi người nhận được email này gửi tiếp cho 10 người khác, thì ít nhất một mạng người sẽ được cứu sống.
09 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 9909)
Đạo Phật có câu rằng: “Quá khứ thì đã qua Tương lai còn chưa tới Hiện tại “ Bồ đề tử “
04 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 10900)
Putrajaya cách thủ đô Kuala Lumpur 25 km về hướng Nam, được xem là trung tâm hành chính của Malaysia. Vào năm 1999, các quan chính phủ đã được chuyển từ Kuala Lumpur đến Putrajaya do tình trạng ùn tắc và quá tải ở Kuala Lumpur.
03 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 11139)
Nhớ lại những ngày thơ ấu dưới mái trường qua cả 2 chế độ, mình chợt nhớ đến bài quốc ca mà mỗi sáng đầu tuần dưới lá cờ Tổ quốc
30 Tháng Mười Một 2012(Xem: 10773)
Chắc chắn, rồi đây sẽ có một ĐẠI THIÊN AN MÔN Ở BA ĐÌNH, con giao long tuổi trẻ Việt Nam với “ Tinh thần Dân tộc Quật cường”, vùng lên, dẹp tan loài lang sói cọng sản tham tàn, phản nước, hại dân theo gương hai Bà Trưng
25 Tháng Mười Một 2012(Xem: 10496)
Chúng ta cùng thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên hòa cùng bàn tay của con người