6:32 CH
Thứ Năm
25
Tháng Tư
2024

CHUYẾN CÔNG DU VĨ ĐẠI CỦA NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐẦU TIÊN

06 Tháng Mười 20195:27 CH(Xem: 7788)
CHUYẾN CÔNG DU VĨ ĐẠI CỦA NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐẦU TIÊN
ĐƯỢC TRỰC TIẾP TẬN MẮT NHÌN THẤY NỀN VĂN MINH TIẾN BỘ CỦA PHƯƠNG TÂY THỜI NHÀ NGUYỄN.
Triều đình nhà Nguyễn đã gởi một phái đoàn ngoại giao đầu tiên sang phương Tây là vào năm 1863, với sứ bộ Phan Thanh Giản đi Pháp và Tây Ban Nha. Nhiệm vụ quan trọng của sứ bộ là dâng quốc thư của vua Tự Đức cho hoàng đế Napoléon III của Pháp xin bãi bỏ hoà ước năm Nhâm Tuất (1862) có nhiều bất lợi cho nước Đại Nam và xin chuộc lại 3 tỉnh miền Đông đã bị Pháp chiếm là Biên Hoà, Gia Định và Định Tường, chuẩn bị thương nghị một hoà ước mới công bằng hơn. Phái đoàn cũng có gặp nữ hoàng Isabella II của Tây Ban Nha để bàn về vấn đề ngoại giao của Tây Ban Nha với Đại Nam.
Sứ bộ do Phan Thanh Giản làm Chánh sứ, Phạm Phú Thứ làm Phó sứ, và Nguỵ Khắc Đản làm Bồi sứ cùng với nhiều nhân viên và binh lính phục vụ khác. Ngoài ra còn hai quan chức cao cấp người Pháp đi theo hướng dẫn là Aubaret và Rieunier. Chi tiết của chuyến đi này được Phạm Phú Thứ ghi chép tường tận bằng Hán văn trong Tây hành nhật ký (bản dịch tiếng Việt của Tô Nam và Văn Vinh). Sứ đoàn rời cảng Bến Nghé ngày 4-7-1863 trên quân hạm Europeen của Pháp, đi theo lộ trình qua Singapore, Malaysia, Ấn Độ dương, biển Ả Rập đến Aden, vào Biển Đỏ đến thị trấn Suez, tại đây cần phải trương quốc kỳ làm hiệu để trên bờ bắn đại bác chào mừng, sứ đoàn có mang theo quốc kỳ nhưng Rieunier cho rằng cái này dễ nhầm lẫn với cờ của nước khác, do đó sứ đoàn dùng tơ đỏ thêu thêm 4 chữ “Đại Nam khâm sứ” vào 2 mặt của quốc kỳ để phân biệt. Nên nhớ rằng năm 1863 chưa có kênh đào Suez, chỉ có cảng Suez nên phái đoàn phải lên bờ tại Ai Cập rồi dùng tàu đi tiếp qua Địa Trung Hải. Tại đây, sứ đoàn lên bộ đi xe lửa qua Cairo đến hải cảng Alexandrie của Ai Cập trên biển Địa Trung Hải, rồi xuống tàu Labrador, đi qua đảo Crète của Hy Lạp, qua đảo Sicile của Italy, và qua đảo Corse của Pháp, đến quân cảng Toulon rồi đến Marseille. Tại đó, sứ đoàn lên bộ đi xe lửa đến Paris.
Khi mới đặt chân đến Pháp, phái đoàn lưu trú tại một khách sạn ở Marseille, nhật ký đi tây của Phạm Phú Thứ mô tả:
Quán bảy tầng, gồm có trăm phòng, bàn ghế, màn trướng phần lớn đều dùng gấm, đoạn để trang trí. Ban đêm thắp đèn khí sáng hơn đèn dầu hoặc đèn nến (có nhà máy khí, lấy than đốt thành khí rồi chứa lại để bán khắp nơi); cây đèn ở các nhà đều trống ở giữa và thông ngầm với ống sắt; ống sắt dẫn khí phân phối cho các nơi để thắp đèn; ngọn đèn nhỏ, nhưng ánh sáng trắng như ngọc)
Ngày 18/9/1863 phái bộ đi thăm viên quan Đại Học sĩ, đi thăm rừng Boulogne, hồ dẫn nước sông Seine, nơi thắng cảnh ở ngoại thành Pari. Đến tối, phái bộ được đi dạo phố, đèn đường sáng như ban ngày”.
Ngày mồng sáu… Đêm ấy, giờ Tuất, người ta lại mời ra đường xem đèn: hai bên vệ đường, trồng cách khoảng liên tiếp những cột sắt (cột cách nhau ba hoặc bốn tượng cao năm, sáu thước), trên cột mắc đèn pha lê thắp bằng khí đốt. Ở các cửa hàng buôn bán, mỗi gian đều có đèn treo thắp sáng; phía trong cửa kính, bày la liệt các thứ hàng. Có nơi ở ngoài sân, người ta làm những ống sắt cong và đặt lên trên giá gỗ. Người ta cũng bắt ống pha lê để làm những biển hiệu ngoài cổng, có khi người ta lại đặt ngang trên cổng những ống pha lê để hơi bốc cháy. Trong ngoài ánh sáng chan hòa, đường phố sáng như ban ngày…”
Trong thời gian ở Pháp, phái đoàn cũng được đi xem sở sản xuất khí đốt:
Ở chỗ chứa khí, có đặt ống, ống cũng có máy để tiện mở và khóa hơi, chạy tỏa ra khắp các nhà và đường phố ở thành thị. Ống này ống nọ dẫn khí đến ngòi đốt; lấy lửa châm đầu ngòi, khí bắt lửa cháy lên, sáng tỏ bội thường (chỗ ngòi đốt cũng có máy, lúc thắp, vặn máy thì khí phun ra và cháy; lúc tắt, cũng vặn máy, khí hút vào và tắt). Ngọn đèn để trong lồng kính và có tán. Ngoài đường phố, trong buồng, trên tường, trên giàn, thường đèn đều thắp bằng khí. Người mua khí tính theo thời khắc, giá so với dầu hoặc sáp thì khá rẻ…”
Trên đường đi, sứ đoàn được tiếp đón rất ân cần, tử tế, chăm sóc rất chu đáo, được mời tham quan nhiều nơi, nhiều cơ sở sản xuất lớn, khiến tầm nhìn được mở rộng, tận mắt thấy khoa học kỹ thuật tiến bộ của phương Tây. Tại Paris, sứ đoàn có gặp một Việt kiều có lẽ là người Việt đầu tiên ở phương Tây, đó là bà Nguyễn thị Liên, vợ của Vannie, ông này từng làm quan dưới triều Gia Long và Minh Mạng. Bà đã theo chồng về Pháp từ năm 1826 và ở hẳn bên Pháp, tại Lorient. Bà nghe có sứ bộ Đại Nam sang, nên không quản xa xôi cùng con gái là Marie đến yết kiến sứ đoàn và ở lại Paris mấy tháng trời cho đến lúc sứ đoàn về nước thì đến tiễn. Chánh sứ và hai phó sứ cũng được mời tham dự một phiên họp Quốc hội của triều đình Pháp do chính hoàng đế Napoléon III chủ trì. Chánh sứ Phan Thanh Giản đích thân trao quốc thư cho Napoléon III tại triều đình Pháp ngày 05.11.1863.
Sứ đoàn rời Paris ngày 8-11-1863, đi xe lửa đến cảng Marseille, từ đây đi thuyền sang cảng Alicante của Tây Ban Nha rồi đi xe lửa đến thủ đô Madrid, trao quốc thư cho nữ hoàng Isabella II tại triều đình của Tây Ban Nha ngày 18-11-1863. Về phiên dịch, sứ đoàn có 3 thông ngôn là Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Trường và Nguyễn Văn San, và các thư ký Tôn Thọ Tường, Phan Quang Hiệu (Nguyễn Văn Trường qua đời trước khi tàu đến cảng Suez). Tuy nhiên các công tác phiên dịch quan trọng nhất đều do Aubaret chủ trì.
Ngày 20-11-1863, sứ đoàn rời thủ đô Tây Ban Nha, lên đường về nước, khởi đầu đi xe lửa đến cảng Valencia thuộc Địa Trung Hải, tại đây xuống tàu trở về nước, men theo bờ biển, đi ngang cảng Barcelona. Khi tàu đi ngang qua Italy có ghé lại Rome, tại đây Trương Vĩnh Ký và một vài người theo đạo Thiên Chúa trong đoàn có đến yết kiến Giáo hoàng Pius IXĩ,. Ngày 18-3-1864 tàu về đến cảng Bến Nghé. Như vậy chuyến đi của sứ bộ Phan Thanh Giản, đi và về mất hơn 8 tháng.
Khi sứ đoàn về nước liền háo hức kể cho vua Tự Đức và các vị quan khác nghe về chuyện mình tận mắt chứng kiến nền văn minh các nước phương Tây tiến bộ cỡ nào và yêu cầu triều đình nên mở cửa quan hệ ngoại giao với họ nhưng thật tiếc là triều đình vẫn u mê tăm tối cho rằng đoàn sứ giả bị "lũ Bạch Qủy" phương Tây mê hoặc và vẫn kính nể đế chế Trung Hoa vĩ đại. Cũng may là vua Tự Đức không bắt hết những người trong đoàn sứ giả và xử tội họ khi quân (dối vua).
Hình chụp đoàn sứ giả Đại Nam tại Paris, Pháp vào ngày 21 tháng 9 năm 1863. Họ chính là những người Việt Nam đầu tiên được chụp hình chân dung kể từ khi máy chụp hình được phát minh ra lần đầu tiên trên thế giới vào năm 1839.
VŨ HOÀNG (Miền Nam VN trước 1975)
đi xứ
Ý kiến bạn đọc
19 Tháng Mười 20191:51 CH
Khách
Các ông già dịch HO, thành phần media mù chống TT Tump không khác gì các đại thần u mê thời nhà Nguyễn.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
01 Tháng Năm 2011(Xem: 18534)
Rải tro theo gió... trên đỉnh đèo Hải Vân... ý nguyện của người đã khuất gợi lên trong tôi hình ảnh vừa bi hùng lại vừa lãng mạn, như là sự kết hợp tuyệt vời giữa mối tình của viên dũng tướng với cô con gái đầu lòng của nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.
27 Tháng Tư 2011(Xem: 19675)
Tôi không nói được gì hết, chỉ gục đầu vào vai vợ tôi rồi bật khóc . Vợ tôi chưa biết những gì đã xãy ra nhưng chắc nàng đoán được rằng tôi phải đau khổ lắm mới phát khóc như vậy. Cho nên nàng vừa đưa tay vuốt vuốt lưng tôi vừa nói, giọng đầy cảm xúc :« Ờ…Khóc đi anh ! Khóc đi ! »
23 Tháng Tư 2011(Xem: 18147)
Tôi ngồi đó để tưởng nhớ nước Việt Nam Cộng Hòa thân yêu của tôi. Tôi để hình tôi trên bàn thờ là coi như mình đã chết theo với nước Việt Nam Cộng Hòa của tôi. Tôi chỉ sống lây lất, lo nhang khói cho đồng đội, cho cha mẹ, vợ con
03 Tháng Tư 2011(Xem: 19800)
Trong niềm bồi hồi xúc động đến rưng rưng lệ khi đọc, chắc chắn quý độc giả không thể không biết ơn những người lính VNCH, Mỹ, Úc... đã đổ máu bảo vệ Miền Nam trước làn sóng xâm lăng của cộng sản trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam.... *
23 Tháng Ba 2011(Xem: 20246)
tưởng đã được giải quyết, phân tán người Việt Nam tỵ nạn trên nước Mỹ, nhưng không ngờ Xe đò Hoàng đơn thân độc mã mỗi ngày một chuyến kéo hai thành phố đông dân cư Việt Nam lại càng gần với nhau hơn nữa.
21 Tháng Hai 2011(Xem: 19940)
Già thì già, họ vẫn cảm thấy hạnh phúc – hạnh phúc hơn một tỷ người khác – cho dù hạnh phúc đó vẫn được họ đếm từng ngày sau mỗi buổi sớm mai thức dậy…
10 Tháng Hai 2011(Xem: 18601)
Tôi nhớ ơn anh chị, và cả vợ chồng anh Hy, chịu đựng được chúng tôi, mà không đấm cho vỡ mồm, hộc máu mũi. Càng lâu, tôi càng thấm thía cái câu ' Bầu bí một giàn'
04 Tháng Hai 2011(Xem: 19543)
Thế đó, họ bán, họ mua vừa như thật, vừa như “chơi” nhưng ai cũng hăm hở, náo nức. Dường như mỗi người đi chợ đang “bán”, đang “mua” cho mình một nỗi nhớ quê nhà vời vợi.
02 Tháng Hai 2011(Xem: 21467)
Hương thơm của gạo, vị ngọt của cơm lẩn với cát sạn tựa như cuộc đời của những quân nhân QLVNCH nói chung, SVSQTĐ nói riêng đã tự hào vào ngày mãn khóa sau mấy tháng quân trường mồ hôi thử thách đó là hương thơm của gạo. Để rồi chuẩn bị dấn thân vào cuộc đời đầy gian khổ hiểm nguy sống chết khó lường
28 Tháng Giêng 2011(Xem: 21088)
Họ gặp nhau và nhận ra nhau. Mới đầu, Hà Giang ôm chầm lấy Đôn mà khóc nức nở. Cô quên mất anh đang là một vị thầy tu. Xúc động nhất là khi Hà Giang cho anh biết Lam Khê chính là con của anh. Hai cha con họ ôm lấy nhau thật lâu và cả hai đầm đìa nước mắt.
21 Tháng Giêng 2011(Xem: 19852)
Hiện tại chúng tôi đang sống tràn trề hạnh phúc. Mùa xuân của cuộc đời tuy đến muộn nhưng chúng tôi bằng lòng lắm với những gì mình đang có, đang sống. Thiên đường có thật anh Hoàng ạ! Và chúng tôi đang tắm trong suối nguồn tươi mát của Thiên Đường.
16 Tháng Giêng 2011(Xem: 20279)
Thành phố lên đèn, tôi vật vờ vô định thoáng nghe bên tai tiếng dương cầm giai điệu bản "Giao hưởng số chin, cung rê thứ" của L.V. Beethoven mà tôi học ngày nào. Hiện tại, tôi chơi nhạc đám ma. Cái chết - quy luật tất yếu giúp tôi sinh tồn, các giá trị nghệ thuật cao quý chỉ còn là hoài niệm!
02 Tháng Giêng 2011(Xem: 21986)
Mũi súng AK thúc vào cạnh sườn, người vệ binh chắc cũng ngạc nhiên không hiểu sao bỗng dưng tôi đứng như trời trồng giữa lộ. Anh quắc mắt nhìn tôi dò hỏi, tôi không nói gì, im lặng nhập vào dòng tù. Nước mắt chảy dài trên hai má hóp, tôi bước đi như kẻ mộng du ...
07 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20787)
Trong cuộc chiến Việt Nam, những chàng pilot nổi tiếng hào hoa ở thành phố. Là thần tượng của các cô con gái đẹp. Nhưng có lẽ ít ai biết rằng, những chàng trai trẻ ấy lại là những chiến sĩ rất hào hùng trên khắp các chiến trường. Bao phen xem cái chết tựa lông hồng.
05 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 21803)
Lâu nay, khá đông người cho rằng thi sĩ Hàn Mạc Tử và nhà giáo kiêm cư sĩ Hoàng Thị Kim Cúc từng có một tình yêu đôi lứa. Lắm sách báo ghi nhận như vậy. Ngay cả lối sống khá đặc biệt của Kim Cúc – suốt đời độc thân, làm thơ tặng Hàn, chẳng chuyện trò điều này với người trong nhà… – càng khiến dư luận nghĩ vậy.
02 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20254)
Hầu hết bạn bè tôi, nếu còn sống sót sau cuộc chiến tang thương đó, kẻ đã phải ra đi trong loạn lạc, ly tan, người thì được ông bạn đồng minh phản bội năm xưa, can thiệp với kẻ cựu thù cho "ra đi trong vòng trật tự" sau nhiều năm bị đày đọa ngục tù, vợ con nheo nhóc, để giờ này mỗi người trôi dạt một phương, mang theo những vết thương không lành được ở trong lòng. Biết đến khi nào chúng tôi mới đuợc như những con chim trane đang tụ tập ca hót líu lo ngoài kia, trươc giờ bay xuống phương nam?
17 Tháng Mười Một 2010(Xem: 21049)
Một câu chuyện thật dí dỏm. Câu chuyện phần nào đã gợi nhớ đến một quảng đời thơ ấu thật êm đềm, hoa bướm ở vùng quê . Phải chi không có biến cố tháng tư 75, cuộc sống của những người dân miền nam hiền hòa chắc chắn là mãi mãi thanh bình, thịnh vượng, và an lành như tác giả "Lấy vợ miền quê" đã mô tả rất chân thật trong câu chuyện
11 Tháng Mười 2010(Xem: 19385)
Bây giờ, nhìn chú Ba nằm đó, tôi lại nhớ câu nói cuối cùng của chú: “Cứ để lá cờ ở đó, trong đầu óc của chú sẽ nhớ mãi hình ảnh lá cờ VNCH tung bay trong gió. Sau này, lá cờ sẽ ra sao? Để tương lai trả lời.”
08 Tháng Mười 2010(Xem: 20245)
Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo Tỉnh lộ 7 ngày xưa, mang theo trong lòng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng cả bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nhìn núi rừng hai bên đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn nữa...
08 Tháng Mười 2010(Xem: 21995)
Mọi người đều đến cõi đời nầy với hai bàn tay trắng, thì lúc ra đi cũng chỉ với hai bàn tay trắng mà thôi. Ai ai cũng đều biết như vậy, nhưng hễ sao mỗi khi nghĩ đến chết thì thấy rờn rợn và hơi lo một chút... Sống sao cho đáng sống mới là việc khó. Đời là vô thường!
07 Tháng Mười 2010(Xem: 27963)
Kính nguyện cầu Đấng Thiên Thựợng Đế tối cao và Hồn thiêng sông núi phù hộ cho toàn dân Việt sớm có ngày "đắc lộ thanh vân", đưa nước Việt lên đỉnh đài vinh quang thịnh trị ngàn đời.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 22679)
Chúng ta thường đi tìm một cái gì bên ngoài để mang lại cho mình hạnh phúc như vật chất, nhà cửa, xe hơi, máy móc, tiện nghi, … hoặc tình cảm gia đình, thân quyến, bạn bè, người yêu, … hoặc danh vọng, địa vị, lý tưởng. Ta khát khao tìm kiếm vì tưởng mình nghèo nàn, thiếu thốn, tâm luôn phóng ra ngoài chạy theo trần cảnh. Trong kinh Pháp Hoa kể thí dụ đứa cùng tử suốt đời đi ăn xin vì không biết trong túi mình có viên ngọc quý, đến khi được người bạn nhắc tỉnh ngộ lấy ngọc ra xài liền hết đói khổ.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 18877)
Tháng 8-1999, tôi dọn nhà đến một căn phòng mới mướn. Trên ngăn kệ cao của closet, người mướn trước để sót lại một xấp “hồi ký” dầy 27 trang viết tay. Đêm đầu tiên ở phòng trọ mới, tôi đọc đoạn “hồi ký” bi hùng đó với nỗi niềm thương cảm không tả xiết: Thương cảm cho một danh tướng trong bước đường cùng của vận nước đen tối; thương cảm cho phu nhân và 2 người con của Tướng tuẫn tiết và thương cảm vị sĩ quan trẻ, có lẽ là Chánh Văn Phòng của vị tướng anh hùng, tức tác giả của đoạn “hồi ký” nầy.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 19709)
Lần nầy, bà Hoa quyết định tự tay đem hộp tro xương ông chồng về tận Việt Nam. Bà sợ thất lạc thêm lần nữa, thì tấm lòng hoài.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 23259)
Người chết lâu rồi , người còn ở lại Từ cuối chân mây đêm bấc lạnh lùng Ngày hiển thánh cả giống nòi mong mỏi Của những linh hồn hữu thủy hữu chung
06 Tháng Mười 2010(Xem: 19788)
Tôi chắc chồng tôi cũng nuối tiếc như tôi và đang chờ tôi đi với anh. Chúng tôi phải nối tiếp lại những ngày hạnh phúc ngắn ngủi xa xưa. Tôi không thể sống mãi trong cô đơn để run sợ trước những ám ảnh của dĩ vãng và những nhung nhớ khôn nguôi người chồng mà tôi mãi mãi yêu thương như buổi đầu gặp gỡ!!
06 Tháng Mười 2010(Xem: 21668)
Cổ nhân cũng đã có câu “ngu si hưởng thái bình”, hay là ta cứ an phận thủ thường, con gái thì mong trời sinh ra đừng quá đẹp, con trai thì đừng có quá tài ba. Còn giàu có bạc muôn không ham, chỉ mong đừng chạy gạo từng ngày. Cứ làng nhàng là xong, không ai thèm muốn, đố kỵ, ganh ghét, nghĩ chuyện đời: “Giàu như người ta cơm ngày ba bữa, đói như mình đây cũng đỏ lửa ba lần.”
05 Tháng Mười 2010(Xem: 19567)
hôm nay ngồi viết lại những hàng chữ này như được thắp nén hương trang trọng cho chị, thưa chị Nở.