4:55 SA
Thứ Ba
30
Tháng Tư
2024

ANH KHÔNG CHẾT ĐÂU ANH (TRẦN THIỆN THANH)

21 Tháng Bảy 201610:27 CH(Xem: 11339)

ANH KHÔNG CHẾT ĐÂU ANH (TRẦN THIỆN THANH)

Huy hieu su doan nhay du...jpg

Huy hieu phao binh nhay du .jpg

Nguyễn Thanh Giang

Trong những ca khúc viết về các vị sĩ quan của Quân lực VNCH đã tử trận một cách hào hùng như Rừng Lá Thấp (Đại Úy TQLC Vũ Mạnh Hùng), Bắc Đẩu (Đại Úy Thiết Giáp Nguyễn Ngọc Bích), Người Ở Lại Charlie (Trung tá Dù Nguyễn Đình Bảo), Người Chết Trở Về (Thiếu Úy Biệt Động Quân Phạm Thái) ..v.v. có lẽ “Anh không chết đâu anh” là bài hát nổi tiếng nhất của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh đã viết về thể loại này. Bài hát đã ca ngợi cái chết của “người anh hùng mũ đỏ tên Đương”, tức cố Đại Úy Nguyễn Văn Đương của tiểu đoàn 3 Nhảy Dù đã hy sinh trên chiến trường Hạ Lào vào đầu năm 1971 và được Nhật Trường trình bày lần đầu tiên trên các phương tiện truyền thông thời đó.

Bia nhac anh khong chet dau em.jpg

Năm 1972, bài hát này lại được ca nhạc sĩ Nhật Trường-Trần Thiện Thanh soạn thành một vở “phim kịch” ca nhạc để dàn dựng trên sân khấu và quay phim ngoại cảnh rất công phu. Nhạc sĩ đã viết thêm các tình tiết có đối thoại và mời nhiều nghệ sĩ khác cùng góp mặt. Chuyện phim kịch này dài chừng 45 phút đã được trình chiếu rất nhiều lần trên đài truyền hình (đen trắng) khắp các tỉnh miền Nam VN trước năm 1975. Hai vai chánh và cũng là hai giọng hát trong đoạn phim kịch này là ca sĩ Nhật Trường và Thanh Lan đã làm cho không biết bao nhiêu người phải rơi nước mắt, xót thương cho một thảm cảnh gia đình nát tan trong thời chinh chiến. Bài hát này được viết theo nhịp điệu chiến tranh, thương tiếc bằng dòng nhạc dạo đầu, trước khi ca sĩ Nhật Trường cất tiếng ca:
“Anh không chết đâu anh, người anh hùng mũ đỏ tên Đương
Tôi vẫn thấy đêm đêm, một bông dù sáng trên đồi máu
Nghe trong đêm kêu gào, từng tiếng súng pháo đếm mau
Và tiếng súng, tiếng súng hay nhạc chiêu hồn đưa anh đi, anh đi
Anh không chết đâu anh ….”
Sau mười tám năm dài kẹt lại ở Việt Nam dưới chế độ cộng sản, năm 1993 ca nhạc sĩ Nhật Trường đã đến định cư tại Hoa Kỳ. Ngoài việc sáng tác, thu thanh các bài hát vào dĩa CD, thu hình vào DVD và trình diễn ở sân khấu đại nhạc hội khắp nơi; người nhạc sĩ tài hoa này đã nhanh chóng thực hiện lại những chương trình phim kịch của ông soạn ra trước kia, trong đó có phim kịch “Trên Đỉnh Mùa Đông”. Đoạn phim kịch này đã được thực hiện lại rất công phu ở Mỹ và được Nhật-Trường Productions phát hành thành video và DVD vào năm 1997. Trong phim kịch này Nhật Trường đóng vai Đại Úy Dù Nguyễn Văn Đương, Thanh Lan đóng vai người vợ là Nguyễn Thị Lệ, Trần Thiện Anh Chương đóng vai Trung Sĩ Toàn, Nguyễn Ngọc Nhơn đóng vai Thiếu úy Nhơn. Qua phim kịch này, với những bài hát “Trả lại em yêu, Nửa hồn thương đau, Anh không chết đâu anh, Trên đỉnh mùa Đông”, đoạn phim đã đưa khán giả trở về đất nước Việt Nam trong thời chiến tranh khói lửa cách đây đúng 35 năm. Nhật Trường đã hát những lời thương tiếc:
”Anh không chết đâu anh, anh chỉ về với mẹ mong con
Anh vẫn sống thênh thang, trong lòng muôn người biết thương đời lính
Trong tim cô sinh viên hay buồn, thường nhắc nhở những chiến công.
Chuyện nước mắt ướt sân trường đại học, chuyện anh, riêng anh, riêng anh …”
Đó là ngày mùng ba Tết năm Tân Hợi (29-01-1971) ở miền nam Việt Nam. Trong lúc mọi người dân ở hậu phương đang vui hưởng những ngày Xuân đầm ấm, thì toàn bộ Sư Đoàn Nhảy Dù (trong đó có Trung Úy Nguyễn Văn Đương) đã âm thầm di chuyển bằng không vận từ các căn cứ gần Sài Gòn ra Đông Hà, Quảng Trị. Lần lượt các đơn vị Dù đã được không tải đến những địa điểm ấn định từ trước, phối hợp với các đơn vị bạn như Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Thiết Giáp, Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến, Không Quân và quân đội đồng minh Hoa-Kỳ… để chuẩn bị tham dự cuộc hành quân lớn nhất từ trước đến nay trong lịch sử hai mươi năm chiến tranh VN (1955-1975). Cuộc hành quân này được mang tên là “Hành Quân Lam Sơn 719” nhằm tiến quân đánh thẳng vào các căn cứ tiếp vận quan trọng của cộng sản ở đường mòn Hồ Chí Minh, vùng Hạ Lào ( tức là vượt biên 25 km qua lãnh thổ của nước Lào). Lam Sơn là quê hương của anh hùng Lê Lợi, người đã đánh đuổi giặc Minh ngày xưa (năm 1427). Con số 719 là gồm 71 là năm 1971 và số 9 là quốc lộ 9 là con đường huyết mạch để chuyển quân trong chiến dịch này (nên gọi là “Hành Quân Lam Sơn 719”).
Kế hoạch hành quân Hạ Lào gồm có 4 giai đoạn:
– Giai đoạn 1: Bắt đầu từ ngày 29.01.1971, Quân đội Việt-Mỹ sẽ hành quân phối hợp để giải tỏa các khu vực gần biên giới Lào và tái chiếm căn cứ Khe Sanh (đã bị bỏ hoang từ năm 1969). Căn cứ này được đặt tên là Hàm Nghi và sẽ là nơi đặt bộ chỉ huy và cũng là nơi tiếp liệu cho cuộc hành quân này.
– Giai đoạn 2: Lực lượng hành quân VNCH gồm 3 cánh quân (Sư Đoàn Dù, Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Liên Đoàn 1 Biệt Động Quân) tiến theo quốc lộ 9 đến thị trấn Tchépone của Lào, để đặt bản doanh Bộ Chỉ Huy Tiền Phương.
– Giai đoạn 3: Sau khi chiếm được Tchépone, các lực lượng hành quân sẽ tảo thanh căn cứ địa 604 của Cộng Sản Bắc Việt, nằm ngay trên đoạn đường mòn Hồ Chí Minh này.
– Giai đoạn 4: Các lực lượng của QLVNCH sẽ từ mật khu 604 di chuyển về phía Tây Nam càn quét căn cứ địa 611 và sau cùng là rút quân toàn bộ cùng với các chiến lợi phẩm trở lại Việt Nam.
Giai đoạn 2 bắt đầu từ lúc tám giờ sáng ngày 8-2-1971, khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố trên các hệ thống truyền thanh và truyền hình toàn quốc như sau: “Cuộc hành quân có giới hạn trong thời gian và không gian với mục tiêu duy nhứt là phá vở hệ thống tiếp liệu và xâm nhập của CSBV trên phần đất Ai-Lao mà chúng chiếm đóng và sử dụng trong nhiều năm nay để tấn công vào VNCH. Ngoài ra VNCH không có tham vọng đất đai nào tại Ai-Lao vì VNCH luôn luôn tôn trọng nền độc lập và sự vẹn toàn lãnh thổ của vương quốc Ai-Lao”.
Lực lượng hành quân phía VNCH do Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư Lệnh Quân Đoàn I, chỉ huy với tổng cộng hơn 17,000 quân nhân. Sư Đoàn Dù là lực lượng nồng cốt của cuộc hành quân này và được phân nhiệm như sau:
– Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn và các đơn vị yểm trợ đóng tại Khe Sanh (Hàm Nghi)
– Lữ Đoàn 1 Dù gồm các Tiểu Đoàn 1,8,9 cùng Thiết Đoàn I Kỵ Binh theo quốc lộ 9 thiết lập căn cứ hỏa lực A-Lưới. Đây là căn cứ lớn nhứt của cuộc hành quân Lam Sơn 719.- Lữ Đoàn 3 Dù với Bộ chỉ huy Lữ Đoàn và Tiểu Đoàn 3 Dù đóng tại căn cứ hỏa lực 31 (cao điểm 456), với pháo đội trưởng của Pháo Binh Dù là Đại Úy Nguyễn Văn Đương.

Phao binh nhay du tai Lao nam 1971.jpg
Tiểu Đoàn 2 Dù đóng quân tại căn cứ 31 (cao điểm 727)
Tiểu Đoàn 6 Dù được trực thăng vận xuống phía bắc của căn cứ 31 vài ngày sau đó.
– Lữ Đoàn 2 Dù gồm các Tiểu Đoàn 5,7,11 là lực lượng trừ bị và đóng tại Tà-Bạt (Lao Bảo).
Sau khi ổn định và củng cố lực lượng, các đơn vị tung quân ra phía ngoài chu vi phòng thủ để thiết lập tiền đồn và tảo thanh, càn quét vùng trách nhiệm. Các tiểu đoàn Dù, Bộ binh và Biệt động quân đã khám phá và tịch thu được nhiều kho vũ khí, thực phẩm, nhiên liệu. Cộng sản liền huy động toàn lực cấp quân đoàn gồm 4 sư đoàn và các trung đoàn xe tăng và pháo binh.
Kể từ ngày 18-2-1971 cho đến ngày 25-2-1971, cộng sản Bắc Việt đã tấn công và chiếm được 2 căn cứ hỏa lực Ranger North và Ranger South do Biệt Động Quân trấn đóng. Cả hai bên đều bị thiệt hại nặng nề về nhân mạng, như lời kể lại của một Chuẩn Úy BĐQ như sau: “Hàng mấy trăm xác VC nằm la liệt khắp nơi, chồng chất lên nhau. Những mảnh rocket, những mảnh đạn súng cối văng tứ tung. Mùi khét lẹt, ghê rợn của thuốc súng, của da thịt những người đã chết. Tiếng kêu gào thảm thiết, đau đớn của những người ngắc ngoải …”
Ngày 23-2-1971 quân CS bắt đầu tấn công căn cứ hỏa lực 31, nhưng bị đẩy lui. Ngày hôm sau CS tăng cường cuộc tấn công với sự yểm trợ của 20 thủy-xa PT-76, nhưng vẫn bị thất bại. Sang ngày 25, CS dùng pháo binh chận đứng sự tiếp viện của 2 căn cứ A-Lưới và 30, và đồng thời tung toàn lực tràn ngập căn cứ hỏa lực 31. Cộng sản đã thiệt mất 1,000 quân và 11 thủy xa và chiến xa T-54 để chiếm được căn cứ này. Một sỹ quan Dù đã ghi lại những giây phút sau cùng của căn cứ hoả lực 31 hay đồi tử thần này như sau: “Lần tấn công thứ 3, VC đã trả đũa bằng một trận mưa pháo tàn khốc, dài suốt nửa tiếng đồng hồ, làm rung chuyển căn cứ như một trận động đất. Lần tấn công này, chúng đã huy động toàn lực còn lại của Sư Đoàn do tên Đại Tá Chơn trực tiếp điều động, tiến lên bằng bốn hướng với đội hình nhảy cóc. Chủ lực của quân ta đương đầu với địch đợt này là các chiến sỹ tham mưu. Người anh cả của Lữ Đoàn là Đại tá Nguyễn Văn Thọ và Trung Tá Châu, Tiểu Đoàn Trưởng Pháo Binh đã đứng sẳn bên chiếc máy truyền tin để truyền lịnh cuối cùng. Các Sĩ quan Tham Mưu của chúng tôi còn lại, chia nhau mỗi người một thùng mìn claymore đặt ngay trên tuyến cuối cùng của trận tuyến. Sau khi đã chuẩn bị xong, quân Cộng tràn lên như kiến cỏ, ai cũng đều thốt ra câu ‘hàng sống chống chết’. Đúng như kế hoạch, Đại Tá Thọ ra lệnh: ‘Bắn trên đầu chúng tôi ngay lập tức’. Lệnh vừa chấm dứt, một trận mưa pháo khủng khiếp từ khắp các vị trí yểm trợ phóng tới bằng đạn “đầu chụp” họp cùng với những mảnh mìn claymore xuyên ngang. Địch quân không còn cách nào cứu chửa, máu chảy lai láng trên mặt đồi, có chổ đọng lại như vũng nước. Những tên còn sống sót cắm đầu chạy hoảng xuống hầm. một toán lao mình xuống trước, bị ngay một trái lựu đạn của thiếu tá Hiền tung ra chết không còn một đứa. Thiếu Tá Hiền cũng đã hy sinh dũng cảm. Ở phía dưới đầu hầm bên kia, tiếng nổ chát chúa của một băng đạn súng ngắn như vội vàng tiêu diệt kẻ thù, rồi Đương, người Pháo Đội Trưởng, đã dành lại cho mình viên đạn cuối cùng.” (theo Phạm Huấn, “Trận Hạ Lào”, 1990).

Phao binh nhay du tran Ha Lao 1971..jpg
Đó là những giây phút sau cùng của người anh hùng Trung Úy Pháo Thủ Dù Nguyễn Văn Đương. (Sau khi hy sinh, ông được vinh thăng lên Đại Úy). Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh đã viết như sau:
“Ôi đất mát trên đồi xanh tình yêu khóc ngất bên cỏ tranh
Đâu cánh dù ôm gió, đây cánh dù ôm kín đời anh
Trong những tiếng reo hò kia lẻ loi tiếng súng anh nhiệm mầu
Ôi tiếng súng sau cùng đó, anh còn nghe tầm đạn đi không anh ?
Không! anh không, anh không chết đâu anh, anh mới vừa bỏ cuộc đêm qua ….”
Đúng 6 giờ 30 phút ngày 25 tháng 2 năm 1971, căn cứ 31 Hạ Lào đã hoàn toàn lọt vào trong tay Bắc Quân và Trung Úy Nguyễn Văn Đương cũng đã vĩnh viễn nằm lại ngọn đồi máu đó với viên đạn sau cùng tự tay ông bắn vào đầu mình. Trong cuốn hồi ký “Một cánh hoa dù” Thiếu tá Dù Trương Dưỡng đã kể lại như sau:
“Ngay chiều hôm đó đồi 31 bị tràn ngập, tôi nghe tiếng Nguyễn Quốc Trụ, bạn cùng khóa, gọi Kiệt bên căn cứ A-Lưới là:” Xe tăng Việt Cộng đang trên hầm chỉ huy, mầy nói pháo binh bắn lên đầu tao, chờ tụi nó xuống tao sẽ tự tử, vĩnh biệt mầy, Kiệt ơi.” Căn cứ hỏa lực 31 thất thủ, bên trong gồm Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù, BCH Trung Đoàn 3 Pháo Binh, Pháo đội 33 của Nguyễn Văn Đương. Thấy tên người nhiều như vậy, nhưng lúc đó quân số đã hao hụt, chỉ còn trên dưới 400 người. Đại Tá Thọ, Trung Tá Châu … bị bắt. Đại Úy Đương tuẫn tiết.”
Đến ngày 25-3-1971, hầu hết các đơn vị QLVNCH đã rời khỏi Lào và chấm dứt chiến dịch hành quân Lam Sơn 719. Kết quả của cuộc hành quân này được ghi nhận như sau:
– Mỹ: 176 chết, 1942 bị thương, 42 mất tích. Thiệt hại: 108 trực thăng và 7 phi cơ bị phá hủy.
– VNCH: 1483 chết, 5420 bị thương, 691 mất tích. Thiệt hại: 75 chiến xa, 405 xe vận tải, mất 198 vũ khí cộng đồng & 3000 vũ khí cá nhân.
– CSBV: 13535 chết, 69 tù binh. Thiệt hại: 76 đại bác, 106 chiến xa, 405 xe vận tải bị tịch thu & phá hủy, 1934 vũ khí cộng đồng và 5066 vũ khí cá nhân bị tịch thu.
Những hình ảnh của trận chiến Hạ Lào này đã được ghi lại ở cuồn DVD “Những vì sao thời lửa đạn” (The shining stars in battle) do Vietnamese Broadcasting Company ở Mỹ phát hành vào năm 2005. Đây là một trong những trận chiến đẩm máu nhứt của lịch sử chiến tranh Việt Nam. Với quân số của CSBV đông gấp 3 hoặc 4 lần quân đội VNCH và họ được nghỉ ngơi tại chổ với nguồn tiếp liệu dồi dào. Trong lúc phía quân đội VNCH bị mệt mõi, thiếu thốn đủ thứ vì phải di chuyển từ xa. Kết quả là sau cuộc hành quân này, phía VNCH đã bị thiệt hại hàng trăm sỹ quan tinh nhuệ và hàng ngàn chiến sỹ, không cách gì đào tạo lại kịp cho đến năm 1975 là lúc tan hàng. Đây cũng là lần thứ nhì quân lực VNCH đã hành quân ra khỏi lãnh thổ VNCH. Trước đó, năm 1970 cuộc hành quân Toàn Thắng tiến sâu vào mật khu VC (Trung ương Cục R) ở bên đất Cam-Bốt đã thành công rực rỡ. Nhưng lần này thì coi như cả hai phe Nam Bắc đều bị thiệt hại nặng nề. (Nhưng phía Mỹ thì tuyên bố là VNCH đã thành công trong chương trình “Việt Nam hóa chiến tranh” và Mỹ chuẩn bị rút hết quân đội về nước, để cho VNCH gồng mình đương đầu với Bắc quân cộng sản).

So luoc phim kich tren dinh mua dong

Trở lại với phim kịch “Trên Đỉnh Mùa Đông” là cảnh Thanh Lan ngồi gục đầu bên ngọn đèn cầy leo lét trên bàn, giữa đêm mưa gió bão bùng ngoài trời. Đưá con trai nhỏ thì đang say ngủ trong giường bên cạnh. Bổng dưng Nhật Trường xuất hiện kế bên với khuôn mặt đầy máu và cất tiếng ca:
“Anh không chết đâu em, anh mới vừa bỏ cuộc đêm qua …”
Thanh Lan giựt mình đứng dậy:
– Đương, anh đã trở về rồi đấy ư ?
– Phải, anh đã trở về với em, với con ..Dào dạt tình thương như những giọt mưa ngoài trời !
– Nhưng …sao mặt anh đầy máu như thế này ? Anh hãy ngồi xuống đây để em băng bó vết thương cho anh .
– Vô ích! Viên đạn sau cùng là của anh, em nghe chưa ? Của chính anh đã bắn vào đầu anh, vì anh không muốn rơi vào tay quân giặc.
– Như vậy là anh đã chết thật rồi sao ? Anh Đương ơi !
– Không! Chiến sĩ VNCH không bao giờ chết …
“Anh chưa chết đâu em, anh chỉ vừa bỏ cuộc đêm qua …
Sao cứ khóc anh bên ngọn nến vàng hắt hiu niềm nhớ…
Trên khăn tang cô phụ còn lóng lánh dấu ái ân
Giọt nước mắt nóng bây giờ và còn hằng đêm cho anh, cho anh …
Không, anh không chết đâu em !
Chưa, anh chưa chết đâu em !”
Trong đại nhạc hội thu hình của Trung Tâm Asia vinh danh nhạc sĩ Trần Thiện Thanh vào ngày 18-2-2006, chỉ còn lại một mình Thanh Lan cô đơn đứng trên sân khấu mà nức nở nghẹn ngào với bài hát này. Ta hãy đọc tâm sự của nhà văn sỹ quan Dù Phan Nhật Nam đã kể lại sau khi xem đại nhạc hội này như sau:
“Mở đầu, Trung Tâm Asia thực hiện lòng trân quý hoài niệm đối với Nhật Trường Trần Thiện Thanh qua màn trình diễn vô cùng sinh động, thắm thiết với nhạc phẩm “Anh Không Chết Đâu Anh” do Thanh Lan trình bày cùng với đồng diễn của ban vũ Lạc Hồng. Với kỹ thuật dàn cảnh hiện đại cao nhất của nghệ thuật sân khấu Hoa Kỳ, tập thể Asia đã dựng lại hoạt cảnh bi tráng trên Đồi 31 ở mặt trận Hạ Lào, tháng Hai, 1975. Đồi 31 bị tràn ngập, Đại Tá Nguyễn Văn Thọ và toàn ban tham mưu lữ đoàn đồng bị bắt, căn cứ chỉ còn khẩu pháo cuối cùng, Đại Úy Đương hạ ngang nòng bắn thẳng vào toán quân cộng sản theo xe tăng T54 ào lên đồi chiếm mục tiêu, và ông gục ngã với khẩu pháo cuối cùng bị phá hủy. Trần Thiện Thanh dựng nên chân dung bi tráng hùng vĩ của Người Lính. Ngôn ngữ, cấu nhạc bi hùng của khúc hát đã thăng hoa về lần quyết tử lẫm liệt của Đại Úy Nguyễn Văn Đương, và những chiến binh, pháo thủ của Tiểu Đoàn 3 Dù. Không có tinh thần hiệp sĩ hiến thân của Người Lính không thể viết nên tiếng lời cực độ cảm khích nầy. Không có tấm lòng từ nhân xót đau của Người Nghệ Sĩ không thể cấu tạo nên dòng nhạc bi tráng thắm thiết như trên…
Và nếu không có rung động cảm thông với nỗi đau của Người Lính (trong mối đau chung uất hận của Miền Nam), Thanh Lan không thể hát hay hơn, hàm xúc thắm thiết hơn.. Để cuối cùng, Trung Tâm Asia đã phối hợp hiện thực tất cả nên thành màn trình diễn đặc sắc đậm nét bi tráng thể hiện cuộc chiến đấu bi hùng của toàn Quân-Dân Miền Nam.”(trích từ Nhật Báo Calitoday Online)
Để kết thúc bài viết này, xin đọc những lời nhận xét của nhà văn Lê Tam Anh về việc Trung Tâm Asia thực hiện chương trình Asia-50 như sau:
“Trần Thiện Thanh rất xứng đáng được mọi người nhớ đến. Khi anh chết đi, tôi có viết một bài nói về anh như một ngôi sao bắc đẩu vừa vụt tắt. Cuộc đời của anh hình như vẫn gắn liền với người lính cho tới hơi thở cuối cùng! Do đó tôi nghĩ một việc vô cùng ý nghĩa như khi Trung Tâm Asia tổ chức show hát nhạc của anh, vinh danh anh với số khán giả kỷ lục. Người ta đã nhớ đến anh qua những sáng tác của anh cho ngàn đời sau, cho lịch sử âm nhạc. Theo tôi, nhạc và lời ca của anh đã gắn liền với lịch sử dân tộc. Sau này 50 năm nữa hay 100 năm nữa, những thế hệ hậu bối muốn tìm hiểu chuyện quá khứ, nhất là về giai đoạn chiến tranh tồi tệ nhất lịch sử Việt Nam có sự hiện diện phá hoại của người CSVN, người ta có thể sẽ xem lại DVD này của Asia để biết thêm về cuộc chiến cũng như về Nhật Trường – Trần Thiện Thanh. Cuộc chiến tranh Việt Nam trong giai đoạn vừa qua, chính anh, Trần Thiện Thanh đã ghi đậm nét người lính Việt Nam Cộng Hòa, anh đã thi vị hóa những mối tình giữa người lính và em gái hậu phương được thăng hoa thật đẹp đẽ.” Hy vọng ngày sau: Lịch Sử sẽ sang trang và sẽ được viết lại theo đúng nghĩa, từ LỊCH SỬ.
Anh không chết đâu anh, người anh hùng mủ đỏ tên Đương
Tôi vẫn thấy đêm đêm một bóng dù sáng trên đồi máu
Nghe trong đêm kêu gào từng tiếng súng pháo đếm mau
Và tiếng súng tiếng súng hay nhạc chiêu hồn đưa anh đi anh đi
Anh, anh không chết đâu em, anh chỉ về với mẹ mong con
Anh vẫn sống thênh thang trong lòng muôn người biết thương đời lính
Trong tim cô sinh viên hay buồn thường nhắc nhở những chiến công
Chuyện nước mắt ướt sân trường đại học chuyện anh riêng anh riêng anh
Ôi đất mát trên đồi xanh tình yêu khóc ngất bên cỏ tranh
Đâu cánh dù ôm gió, đây cánh dù ôm kín đời anh
Trong những tiếng reo hò kia lẻ loi tiếng súng anh nhiệm màu
Ôi tiếng súng sau cùng đó, anh còn nghe tầm đạn đi không anh
Không, anh không, anh không chết đâu em anh chỉ vừa bỏ cuộc đêm qua
Tôi thấy mắt anh bên ngọn nến vàng hắt hiu niềm nhớ
Trên khăn tang cô phụ còn lóng lánh dấu ái ân
Giọt nước mắt nóng bây giờ và còn hằng đêm cho anh cho anh …

Anh không chết đâu anh – Trần Thiện Thanh (Asia DVD 50 … – YouTube
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
18 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 19806)
"Và từ đó chúng tui đi nhà thờ mỗi Chủ Nhật. Cám ơn Chúa . Cầu nguyện cho Má mau hết bệnh. Cầu nguyện cho mấy chị em có công ăn việc làm. Các cô chú trong nhà thờ đối xử rất tốt với tui ,không ai nhìn màu da tui mà khinh khi hết.Tui vui lắm khi mọi người cứ kêu "Amy, đến phụ cô làm cái này đi ! Amy, ăn chút gì cho có sức rồi hẵn làm chứ cháu
18 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 19464)
Vợ tôi thường tuyên bố chắc nịch, "không con mèo nào lại chê mỡ". Tôi cũng là một con mèo háu đói, nhưng những miếng mỡ chung quanh đều do vợ dăng bẩy. Ngu gì mà mắc bẫy. Cái tiền lệ của ngày hẹn hò đầu tiên tôi đã vượt qua dễ dàng, nhưng lúc đó khác, bây giờ khác. Đã biết mỡ heo ngon tự nhiên cũng tò mò muốn nếm mỡ gà, mỡ bò... Tò mò chút thôi, chớ ngu gì mà bỏ nhà đi làm mèo hoang! Thỉnh thoảng tôi làm mèo hoang trong mơ mà thôi.
17 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 22337)
Mỗi khi gặp gỡ một ánh mắt nhìn thân thiện, tôi luôn cảm thấy như được sưởi ấm. Và tôi tin rằng ai cũng có cùng một cảm nhận tương tự từ những cử chỉ thân ái nhỏ nhặt từ người khác. Thực tình mà nói, ngọn nến không khó để thắp lên, vấn đề là tôi có đủ can đảm bỏ bớt thì giờ dành riêng cho mình để bước ra hòa mình và chia sẻ với người khác hay không. Một Lễ Giáng Sinh trọn vẹn không thể không có thật nhiều những ngọn nến yêu thương như thế.
15 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 26048)
Xanh luôn luôn là một con người đáng ngưỡng phục. Và giờ đây anh còn là một công dân Mỹ đáng quý. Tôi cám ơn trời đã cho tôi gặp được một người bạn như Xanh
14 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 20229)
Đêm đã sâu hơn, ngồi chong mắt lên màn hình vi tính, quê hương thu về một cõi lòng đau đáu, kịp nhận ra còn có những anh em đang “lẻ loi như cây rừng đông, từng phen chết trong bão bùng,” mà vẫn dìu nhau qua hết những con đường đi tìm lại chút hơi người.
12 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 23616)
Làm người lương thiện ở Việt Nam khó hơn làm tiến sĩ cả vạn lần. 100 người bảo vệ luận án tiến sĩ hầu như đạt cả 100. Nhưng 100 thằng tù mà trở về xã hội, may lắm chỉ có 1 hay 2 thằng trở thành người tử tế, nghĩa là tìm công việc tử tế sống cuộc đời lương thiện đến cuối đời.
07 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 23862)
Người miền Nam có câu nói ám chỉ một sự việc xa vời, vô định, vô vọng và chìm sâu vào tuyệt vọng: “Mút chỉ cà tha”. Những tưởng học tập cải tạo 10 ngày để rồi trở về với cuộc sống bình thường hàng ngày, ai ngờ đã qua 10 ngày mà vẫn thấy chưa học tập được một chữ nào! Thế cho nên chúng tôi bảo nhau: “Kiểu này học tập... mút chỉ cà tha!”
06 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 20181)
Tao phải đề nghị cái thằng viết bức thông cáo kêu gọi quân nhân “ngụy” đi trình diện học tập cải tạo sau ngày 30/4/75 được lãnh giải Nobel về văn chương láu cá
06 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 21743)
thực trạng xã hội diễn ra hằng ngày và cũng là cách để anh sống với chính mình.Bùi Trung Việt nói: “Tự do, đó là thứ tôi đang có được, bởi tôi đi bán khoai lang chứ không phải đang ngồi trong Luật Sư Đoàn!”
30 Tháng Mười Một 2011(Xem: 19372)
tôi cũng sẽ đặt một cái cân và cây thước trước cửa nhà.Tôi sẽ tiếp nối công việc của cha,tôi cũng sẽ là người cân đo tội ác và thời gian của cộng sản Việt Nam./.
30 Tháng Mười Một 2011(Xem: 20954)
Tất cả là duyên, là nghiệp hay nói nôm na là cái số. Phật ở trong tâm của ta. Phật ở trong tất cả hành động sinh hoạt hàng ngày. Phật ở tất cả mọi nơi. Điều quan trọng nhất là tâm hồn phải vị tha, luôn thành tâm hướng thiện. Mọi việc đã có tạo hóa an bài…
26 Tháng Mười Một 2011(Xem: 18907)
Đối với người tị nạn Việt Nam, có lẽ chưa có câu chuyện nào cảm động bằng cuộc hội ngộ của hai cha con ông Trương Văn Hào, sau 34 năm xa cách. Khi biết tin, phóng viên nhật báo Người Việt đã liên lạc được với ông Hào và được ông kể lại câu chuyện sau đây. Nhân ngày Lễ Tạ Ơn năm nay, nhật báo Người Việt đăng câu chuyện này để độc giả cùng suy ngẫm.
24 Tháng Mười Một 2011(Xem: 18744)
bởi lỡ mai này, những người thương của chúng ta không còn nữa, thì ngày Lễ Tạ Ơn sẽ có còn ý nghĩa gì không? Xin cho tôi được một lần, nói lời Tạ Ơn: Cám ơn lắm, cuộc đời này.
21 Tháng Mười Một 2011(Xem: 20360)
Một câu chuyện thật xót xa ... Cô gái lái xe đã hành động đúng : Trả cho mọi người trong xe cái mà họ đáng được : Đến chỗ...Không có loài người , nơi chỉ tồn tại những linh hồn "không có trái tim" !!
20 Tháng Mười Một 2011(Xem: 20387)
người nghệ sĩ mà chúng tôi muốn nói đến trong bài viết này là một thiếu nữ Việt Nam trẻ đẹp, sinh ra và lớn lên ở Hoa Kỳ sau 1975 trong một gia đình tỵ nạn, từng làm nghề đánh cá ở một làng chài lưới tại Quảng Ngãi trước tháng Tư 1975
17 Tháng Mười Một 2011(Xem: 20350)
Không còn lầm được. Không còn ảo tưởng:"Đã trốn trại, còn đang ẩn trốn tại một nơi nào." Tôi mất anh thật rồi! Thế là hết. Tôi khóc nức lên. Trời như nổi gió. Cỏ cây chao đảo. Đồi núi quay cuồng. Quanh tôi cảnh vật mờ đi...
11 Tháng Mười Một 2011(Xem: 18660)
Chuyện cây cầu treo năm ấy là bài học quí giá dạy cho con người đức tính khiêm cung, biết được thân phận nhỏ nhoi của mình có nghĩa lý gì đâu, so cái lớn lao vô cùng trời đất.
28 Tháng Mười 2011(Xem: 19175)
Người lính Trạch Gầm cũng có vài ba mối tình, cũng có lúc “khi lính đã yêu rừng tàn núi lở”. Nhưng , từ cổ chí kim ,tôi chưa thấy ai “mày tao” với người tình như ông thi sĩ lính này.
28 Tháng Mười 2011(Xem: 17871)
Vẫn tấm bảng đó,nhưng hàng chữ đã đổi khác “Ủy Ban Nhân Dân Huyện Giáo Đức”. Cột cờ giữa sân vẫn còn đó, nhưng lá cờ vàng ba sọc đỏ bay phất phới ngày nào không còn nữa mà đã bị thay thế bằng một lá cờ khác
26 Tháng Mười 2011(Xem: 19724)
Hỡi ơi ! Người đàn bà tài hoa ấy có lẽ cũng đã nhận ra rằng : Tài và sắc vốn là một mối lụy của kiếp nhân sinh. Cho nên mới không làm thơ nữa. Để làm vợ -một người vợ bình thường như mọi người vợ khác.
18 Tháng Mười 2011(Xem: 19497)
Thời gian trôi theo sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật . Nguời ta đã chế tạo ra nhiều thứ. . . . kể cả nguời máy , nhưng có một thứ họ không chế tạo được là trái tim người mẹ
17 Tháng Mười 2011(Xem: 21288)
Nhưng hôm nay , ở cái tuổi không còn trẻ nữa , khi mái tóc không còn xanh nữa , sau những vật chất phù hoa tôi đã nếm biết bao vị đắng , trải qua bao phũ phàng của tình nghĩa vợ chồng .
08 Tháng Mười 2011(Xem: 23839)
Hôm nay, hít thở không khí tự do nơi đất nước tạm dung, hồi tưởng lại quá khứ, chiến trường Phước Long, kiếp lưu đầy tù tội nơi lam sơn chướng khí Việt Bắc, những ngày đói khát không có lấy một chén cơm cho đủ no để chống với cái lạnh cắt da, cô đơn không người thăm hỏi, và biết bao muôn vàn những cay đắng tủi hờn trút đổ thù hận trên người chiến sĩ Quốc Gia sa cơ thất thế.
05 Tháng Mười 2011(Xem: 20793)
Và còn nữa, ngồi để nhìn cho rõ cái cô đơn trống vắng của tuổi hoàng hôn trong bước lưu đày. Mầy biết không, có ông tráng sĩ nào đó ngửa mặt lên trời than “ Ôi thời oanh liệt nay còn đâu “ thì được đấng phu quân an ủi ngay “ Oanh không có, nhưng có liệt !”
25 Tháng Chín 2011(Xem: 20376)
Chinh chiến đã tàn, Việt kiều vượt biển vượt sông. Việt cộng thắng Tây thắng Mỹ. Liệu chữ “Việt” chung nhau ấy có đủ lấp nổi giòng Bến Hải li ti ở trong tâm mỗi người tự nhận là người Việt?
15 Tháng Chín 2011(Xem: 18849)
Tháng chín gió Thu bắt đầu thổi lạnh. Buổi sáng ra sau vườn, vợ tôi nhắc tôi phải khoát thêm chiếc áo ấm để phòng cái thân đang... về già. Sau hè nhà tôi có trồng một hàng phong rậm lá. Sáng nay, nhìn những chiếc lá thu mới úa, chưa vàng run rẫy trong gió sớm làm tôi nhớ những mùa thu đã đi qua ở bên nhà.
12 Tháng Chín 2011(Xem: 21087)
Tôi yêu đất nước này nhưng ở trong một sự so sánh tôi vẫn chưa hiểu biết hết tận tường ân sủng này như thế nào. Cảm xúc, tạ ơn, tình yêu của gia đình người tị nạn này
10 Tháng Chín 2011(Xem: 20702)
Ông nội hy vọng rằng, môt ngày nào đó sẽ được gặp cháu. Nếu mẹ cháu nghĩ lại và muốn tiếp xúc với ông nội, hãy gọi điện thọai nhắn tin với Tòa báo Việt Luận, rất gần nơi cháu đang ở. Ông nội đang mong tin cháu.
06 Tháng Chín 2011(Xem: 19665)
Nhưng dầu là cách nào, tôi thực sự cũng cám ơn cơ duyên này. Vì nhờ đó mà tôi có được một tri âm trong phần đời còn lại của mình, trên thế gian này, giữa dòng đời xa lạ hôm nay.
04 Tháng Chín 2011(Xem: 23634)
Cuối cùng rồi thì người tốt kẻ xấu, người ngay kẻ gian cũng phải ra đi, nhưng không phải cái chết nào cũng giống cái chết nào, thiên đàng, địa ngục không ở cùng một nơi.
17 Tháng Tám 2011(Xem: 21393)
Sáng mai tôi lại lên lớp giảng về truyện Kiều. Kìa tại sao những dòng chữ trên giáo án mờ dần, mờ dần... Một giọt nước mắt nóng hổi không cầm được của tôi đã rơi xuống, đọng lại và thấm sâu vào trang giấy trắng.
14 Tháng Tám 2011(Xem: 18598)
Nhân dịp lễ Vu Lan, xin mời các bạn nghe nỗi lòng của một người con khi phải đưa mẹ vào Viện dưỡng lão. Trong tương lai một ngày gần đây, rồi cũng sẽ đến lượt chúng ta phải vô viện dưỡng lão, xin đừng trách con cái nếu là trường hợp vạn bất đắc dĩ , bởi vì chúng nó cũng đau lòng lắm nhưng không thể làm khác hơn được, nhưng miễn là đứa con không quên bổn phận thăm nuôi những ngày sau đó..
03 Tháng Tám 2011(Xem: 19729)
để ông được làm: MỘT MỘ PHẦN BÊN NGÀN CHIẾN HỮU CỦA TÔI. NGƯỜI VIỆT CỦA TÔI, NGƯỜI TƯỚNG LÃNH CỦA QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA CỦA TÔI LÀ THẾ ĐẤY.
02 Tháng Tám 2011(Xem: 20736)
Biết lấy gì để đền đáp công ơn anh đây? - Người anh em của tôi ơi, tôi mới phải là người cảm ơn anh. Chính anh đã cho tôi hạnh phúc lớn lao. Chính anh đã giúp tôi thoát khỏi cái con vợ yêu tinh của tôi đấy!
28 Tháng Bảy 2011(Xem: 19423)
“Học vấn không phải là vấn đề không quan trọng trong cuộc sống vợ chồng, nhưng điều quan trọng nhất đối với Hòa, đó là tình yêu thương lẫn nhau; vì nếu không thật sự yêu thương, thì không thể vượt qua được những chướng ngại của cuộc sống
26 Tháng Bảy 2011(Xem: 18818)
Vậy mà hôm tao phải liệng súng đầu hàng vào cuối tháng tư 75, tao nghe đau điếng như vừa lãnh một viên đạn. Lần đó, tao không đánh giặc vậy mà tao lại bị thương, bị thương ở trong lòng.
17 Tháng Bảy 2011(Xem: 17299)
Anh đã trả gía cho cơn sốt tình ấy 10 ngàn đô la, qúa đắt so với “gía cả” bình thường của cô Nâu “đi” với những người đàn ông khác, và suýt nữa bằng cả sinh mạng của anh và vợ anh, cũng như tương lai của hai con sẽ ảnh hưởng không biết tai hại đến chừng nào.
03 Tháng Bảy 2011(Xem: 20953)
Ngoài song thân ra, người tôi biết ơn nhiều nhất là vợ tôi. Đời sống tôi có ý nghĩa hơn, sung sướng hơn, hạnh phúc hơn nhờ vợ khôn ngoan dịu dàng .Nhiều đêm thức giấc tôi nhẹ hôn lên mắt vợ,
29 Tháng Sáu 2011(Xem: 18675)
Anh thầm thì: xin hãy chôn chặt hộ tôi cái quá khứ đau thương và lầm lỡ đó lại. Chính nó đã gây biết bao chia lìa, tang tóc, và sự thù hận giữa những người anh em cùng một mẹ, không biết sẽ kéo dài cho đến bao giờ?
19 Tháng Sáu 2011(Xem: 19089)
Tôi buông ống nghe, thẫn thờ nhìn ra ngoài cửa sổ như muốn tìm kiếm một điều gì. Trời mùa đông Bắc Âu phủ đầy tuyết trắng, nhưng sao trước mắt tôi đang lung linh bầu trời xanh bao la của cả một thời tuổi thơ. Cái thuở ba thằng chúng tôi vui đùa nghịch ngợm, trong lòng chưa hề vướng bận chuyện chiến tranh kéo theo bao cay đắng cuộc đời.
19 Tháng Sáu 2011(Xem: 17567)
Trước 1975, tác giả từng viết nhiều truyện ngắn trên bán nguyệt san Tuổi Hoa, và các truyện dài xuất bản bởi Tủ Sách Tuổi Hoa. Sau 30/4/1975, Cam Li không viết nữa, chỉ chuyên làm công việc nghiên cứu khoa học. Định cư tại San Jose từ 2003, sáu năm sau cô góp nhiều bài viết giá trị . Bài mới nhất của tác giả dành cho mùa lễ Father’s Day 2011.
09 Tháng Sáu 2011(Xem: 19249)
Và trong khi cô tìm kiếm ý nghĩa của cuộc đời qua ánh sáng chiếc màn ảnh điện thoại, bà cụ ngồi ở băng sau đã trở nên vô hình, và cô đã không thể trông thấy những giọt nước mắt của bà.
30 Tháng Năm 2011(Xem: 19419)
trên vách tường cũ vẫn treo tấm giấy khen “Anh hùng diệt Mỹ” đóng khung, lồng kính và đã bạc màu hoen ố theo thời gian của anh Siêu không còn nữa, mà thay thế vào là khung hình mới tinh, trên bức tường cũng mới tinh, hình gia đình cô Lạc, cô với người chồng Mỹ
28 Tháng Năm 2011(Xem: 21433)
Bởi vì chúng ta có mắt, cho nên khi chúng ta nhìn người, chỉ dựa vào cảm giác của mắt, mà quên dùng trái tim. Đúng như người vợ mù đã nói, "Con mắt của trái tim mới sáng nhất, thật nhất!"
24 Tháng Năm 2011(Xem: 18385)
nghiệp do chính con người tạo ra, bất định tính nên nghiệp có thể chuyển hóa được. Do đó, con người có thể thay đổi, chuyển hóa nghiệp báo của mình từ xấu thành tốt, từ ác thành thiện hoặc ngược lại
23 Tháng Năm 2011(Xem: 20270)
ôi nhớ mỗi năm khi ngày "Mother's Day" đến, các ông thường kiếm cớ “em là vợ anh chứ có phải là má anh đâu mà anh phải mua quà."(Câu này tôi nghe quen quen quí vị ạ )
21 Tháng Năm 2011(Xem: 18012)
Làm sao mẹ tôi có thể sống thiếu tôi! Tôi là nguồn sống của bà mà! Tất cả sinh lực, ý chí phấn đấu trước kia là vì tương lai của tôi, là vì tôi! Không có tôi bên cạnh, không có đứa con trai thương yêu của bà bên cạnh
18 Tháng Năm 2011(Xem: 20391)
Mỗi ngày, trong nắng ấm, nhìn biển trời, nghe sóng biển rì rào, Lang da diết nhớ về Nha Trang, về những ngày tuổi thơ cùng với gia đình, thầy bạn, và hồi tưởng về một quá khứ với biết bao thăng trầm biến đổi của quê hương, của gia đình và của cả một đời người.
06 Tháng Năm 2011(Xem: 19842)
đằng sau sự tỏa sáng của một người đàn ông Việt Nam thường là cái bóng thầm lặng của một người phụ nữ.Mời quí độc giả nghe con gái của nhà văn Doãn Quốc Sỹ kể lại cuộc đời thầm lặng của mẹ mình nhân ngày Mother Day…
04 Tháng Năm 2011(Xem: 19904)
Hôm nay là ngày giỗ mẹ, tôi viết những dòng này là tâm sự của một người con suốt đời không có mẹ ở bên và thành kính dâng lên hương hồn mẹ như một nén nhang thắp muộn.