Sau khi kết thúc chiến tranh ở Việt Nam. Ban đầu, tưởng chừng như ký ức bấy nhiêu năm bị dồn nén, sẽ ngay lập tức ào ạt tuôn chảy. Nhưng rồi tâm trí tôi bỗng trở nên trống rỗng kỳ lạ. Dường như nó muốn khép chặt lại, chối bỏ việc hồi tưởng không chỉ 40 năm, mà còn dài hơn thế. Tôi bỗng không muốn nghĩ về quá khứ, chỉ muốn nghĩ đến những gì phải làm trước mắt. Giống như câu chuyện tôi nghe về người Mỹ đã làm được, sau cuộc nội chiến Nam Bắc, gác bỏ mọi hận thù để cùng nhau xây dựng đất nước, thành một cường quốc trên thế giới.
Nhưng đâu phải cứ muốn là được? Nếu như đã không thể gạt bỏ quá khứ, để tiến tới tương lai, thì giống như để chữa được một căn bệnh, người ta phải mạnh dạn mổ xẻ nó, để tìm nguyên nhân căn bệnh, xem phải cắt bỏ cái gì, thay thế cái gì?
Như tôi đã từng thú nhận, cách đây chỉ chừng mươi năm, với những gì được dạy dỗ (hay chính xác là bị nhồi nhét), tôi vẫn còn là một tín đồ cuồng tín của chủ nghĩa xã hội. Tôi tự hào về thắng lợi vĩ đại của cuộc “kháng chiến chống Mỹ cứu nước”. Tôi tự hào và yêu quý “bác Hồ”. Tôi đổ tại sự nghèo khó của đất nước là do sự cấm vận của “đế quốc” Mỹ, do chiến tranh với Campuchia và Trung Quốc.... Tôi chưa bao giờ nghĩ, nguyên nhân của nghèo đói và lạc hậu của Việt Nam là do sự dốt nát, độc tài của những người nắm vai trò lãnh đạo đất nước.
Có một điều kỳ lạ là trong suốt mấy chục năm, mặc dù nhìn thấy những vấn đề tiêu cực trong xã hội, nhưng tôi cũng như rất nhiều người, vẫn chấp nhận nó bằng một thói quen cam chịu, mà không hề có bất cứ một động thái phản kháng nào. Cho đến tận cuối năm 2006, đầu năm 2007, khi vụ các quan chức tham nhũng ở PMU18 vỡ lở, những mảng tối “bất khả xâm phạm” trước đó được báo chí phanh phui, những ngờ vực về động cơ đấu đá nội bộ, trong cả cơ quan dân sự lẫn bên cơ quan thi hành luật pháp là công an, đang được cả xã hội “tò mò” tìm hiểu mới khiến tôi mở mắt. Trong một lần đến thăm “sếp” cũ đã về hưu, tôi không nhớ ngữ cảnh nào dẫn đến câu nói của ông: nếu cháu đọc “Đêm giữa ban ngày”, thì sẽ thấy sự tàn bạo của cộng sản còn kinh khủng hơn cháu nghĩ nhiều.
Tôi đã tìm đọc cuốn sách đó trên mạng. Và đó là lần đầu tiên tôi tìm đến mặt trái của tấm màn, bấy lâu nay vẫn che mắt tôi, về cái xã hội mà tôi đang sống. Một sự thức tỉnh thật muộn màng. Cho dù sự thức tỉnh của cá nhân tôi chẳng thể xoay chuyển được điều gì, nhưng ít ra tôi không để cho ai đó lừa bịp và nhân danh cái quyền nhân dân của tôi nữa.
Suy luận theo cách thông thường, có khuất tất thì mới che giấu. Khi được có đầy đủ thông tin đa chiều, người ta sẽ nhận định bản chất sự việc theo tư duy của chính họ, chứ không theo định hướng của người khác nữa. Cho dù vì cái tư duy không theo định hướng đó nhiều người đã bị nhà cầm quyền bỏ tù, nhưng theo quy luật, cuộc sống càng bị dập vùi, càng nảy sinh ra sự phản kháng, chứ không thể tiêu diệt nó. Một cô bạn tôi, vốn dĩ không bao giờ quan tâm đến chính trị, cũng phải thốt lên: Luật sư là những người được đào tạo bài bản về luật. Nhưng chưa thời nào nhiều luật sư bị bắt như bây giờ! ( Lê Thị Công Nhân, Lê Công Định, Nguyễn Văn Đài, Lê Quốc Quân, Cù Huy Hà Vũ).
Nhưng ngay cả khi bắt đầu tham gia những cuộc biểu tình chống Trung Quốc vào giữa năm 2011, tôi cũng như nhiều người biểu tình khác vẫn chưa hoàn toàn tỉnh ngộ. Những lúc xuống đường, người biểu tình vẫn còn đem theo cờ Tổ quốc. Và rồi sự đàn áp của nhà cầm quyền đối với những người biểu tình, đã làm thay đổi suy nghĩ của họ. Bây giờ người biểu tình chống Trung Quốc không còn ai đem theo cờ đỏ sao vàng nữa. Họ công khai tỏ rõ thái độ căm ghét thái độ hèn với giặc, ác với dân của nhà cầm quyền. Chưa bao giờ, dân chúng lại công khai chửi đảng cộng sản là bán nước như bây giờ. Sau khi chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ trên phạm vi toàn cầu vào những năm 1990, người ta quen với cụm từ: “Không có ai đánh bại Cộng sản cả. Chỉ có Cộng sản mới đánh bại được Cộng sản.” Tôi muốn thêm vào câu, “Không có ai bôi nhọ Cộng sản cả. Chỉ có Cộng sản mới bôi nhọ được Cộng sản”.
Tôi không muốn nói chi tiết ký ức của riêng mình, về trước và sau cuộc chiến tranh cách đây 40 năm. Nó quá tầm thường so với nỗi thăng trầm của hàng triệu con người khốn khổ khác trên đất nước này. Sắp đến một ngày 30/4 nữa lại đến. Người nằm xuống hay kẻ ra đi, ai đau thương hơn ai? Bao giờ nó sẽ chỉ còn là một vết sẹo thời gian trong lòng mọi người Việt Nam?
Mỗi người có một thời gian nhất định để sống và 40 năm đã quá dài cho trắc trở của một dân tộc. Nhiều lúc tôi nghĩ sao đoạn đường mà dân tộc tôi đang giãy giụa để vượt qua lại gian truân như thế? Cả một dân tộc lại phải chịu nghiệt ngã chỉ dưới tay bằng ấy con người? Bốn mươi năm đầy lầm than xương máu vẫn chưa tới được bến bờ của một cuộc sống bình an đích thật. Bằng an trong tâm hồn không thể có khi chung quanh tôi vẫn đầy tiếng rên xiết của người dân lẫn với âm thanh hò hét ca tụng một “chiến thắng” đã trở thành cổ tích.
40 năm đã qua, không lẽ phải chờ một 40 năm khác để gột rửa sự sai lầm của một lớp người, trong đó có người thân ruột thịt của tôi và cả chính tôi nữa? Bi kịch nào lại kéo dài tới bằng ấy năm mà không chấm dứt?
Một ngày 30/4 nữa lại sắp đến. Cho đến bao giờ ngày này không phải để cho người cười kẻ khóc, mà chỉ còn là một vết sẹo thời gian trong lòng mọi người Việt Nam?
PHƯƠNG BÍCH/ RFA