Buổi trưa, trên con đường sau nhà thờ Thánh Linh, một bà tóc bạc phơ ngăn tôi lại hỏi, bằng tiếng Anh: “Chuyện gì vậy? Sao hôm nay Thứ Hai mà nhiều xe đậu thế?” “Thưa cụ, có tang lễ.” “Trông ông ăn mặc thế này tôi biết là có tang lễ rồi. Những ai vậy?” Tôi định nói “Việt Dzũng,” nhưng nghĩ ra ngay là bà cụ già sẽ không hiểu mình nói gì.
Thấy một đám tang lớn, người Mỹ có thể hiểu nguyên nhân nếu người qua đời là một nhạc sĩ hoặc ca sĩ nổi tiếng. Nhưng tôi định mở miệng nói lại ngưng, không thể dùng những chữ đó. Giới thiệu Việt Dzũng như vậy không đủ. Không diễn tả hết được hình ảnh của anh trong tấm lòng của hàng ngàn người đến tiễn chân anh lần cuối. Việt Dzũng vượt lên trên tất cả những danh hiệu này, mặc dù anh làm nhạc và hát hay. Trong khi bà cụ vẫn nhướn mắt chờ nghe một lời giải thích, tôi nói nhanh cho gọn: “Ông ấy là một người tranh đấu, a fighter.” Nói xong thì biết mình sẽ gây hiểu lầm, phải nói thêm: “Một người tranh đấu cho một lý tưởng. Tranh đấu cho công bình, cho tự do.” Trong đầu tôi còn văng vẳng lời Đức Giám Mục Mai Thanh Lương giảng trong thánh lễ, dẫn Phúc Âm theo Thánh Mathieu: “Phúc cho những người công chính bị bách hại, vì Nước Trời là của họ.”
Bà
hàng xóm người Mỹ gật đầu, cảm ơn rồi tiếp tục đi dạo qua những hàng xe
đậu tràn hai bên đường, nhiều xe đậu không đúng luật nhưng cảnh sát đi qua cũng làm ngơ không phạt. Nhưng tôi bùi ngùi, thấy mình chưa nói đủ về Việt Dzũng. Dzũng là một người tranh đấu, đúng. Cuộc đấu tranh của anh đã bắt đầu ngay từ tuổi nhỏ, khi anh chưa hiểu những chữ “lý tưởng,”
“công bình” và “tự do” nghĩa là gì. Khi trưởng thành Việt Dzũng còn tranh đấu vì lòng yêu nước, tranh đấu cho những đồng bào tị nạn được định cư, tranh đấu cho các tù nhân của lương tâm, tranh đấu để nước Việt
Nam có ngày được sống dân chủ tự do, ngẩng mặt lên không hổ thẹn với các nước chung quanh.
Không
phải chỉ tranh đấu không thôi, Việt Dzũng còn là một nhà chinh phục. Anh đã chinh phục được tình yêu thương, kính trọng của hàng triệu người Việt, ở khắp năm châu. Nghe tin anh qua đời, bao nhiêu người đã khóc. Hàng ngàn người đến dự các buổi tưởng niệm và tang lễ. Nhưng ngay từ khi
còn nhỏ, tới trường Việt Dzũng đã phải tranh đấu. Nhiều bạn học vô tình
đã đùa cợt, chế nhạo hai chân khuyết tật của anh. Cuối cùng Việt Dzũng không những đã làm cho đám bạn trẻ chung quanh mình phải ngưng trò đùa nghịch mà anh còn chinh phục được lòng kính trọng của họ, biến họ thành những người bạn quý, yêu thương, thân thiết. Cả cuộc đời Việt Dzũng là tranh đấu và chinh phục.
Nhưng một con người chỉ tranh đấu thì cũng không đủ để chinh phục được tình yêu thương kính trọng của mọi người. Việt Dzũng được đồng bào yêu quý không chỉ vì anh là một biểu tượng đấu tranh, mà còn vì anh là hình ảnh một nhân cách trong sạch, hùng tráng, và đam mê. Nhân cách tinh thần biểu lộ trong những việc anh làm, ngay trong đời sống và công việc hàng ngày. Những người cộng sự đều ngậm ngùi nhưng cũng hãnh diện kể lại những kỷ niệm đã chia sẻ với anh.
Nhà
văn Huy Phương nhắc mọi người, “Phải nhìn những cụ già ngồi xe lăn, những gia đình dẫn cả con cháu đến dự đêm tưởng niệm Việt Dzũng, một đêm
cuối năm giá lạnh, trước đài truyền hình SBTN;” trong đó “không ca sĩ nào, không MC nào, cầm nổi nước mắt.” Và ai cũng phải tự hỏi, “Vì sao cả
những người ở xa, từ San Jose xuống, từ Riverside về, từ Los Angeles, San Diego đến, không hề quen biết, gần gũi anh, chỉ thấy nghe anh qua băng nhạc, làn sóng phát thanh hay băng tần truyền hình, vì ngưỡng mộ, thương tiếc anh, cũng sụt sùi nhỏ lệ.”
Một
người đã nhận xét: Việt Dzũng qua đời đã giúp mọi người đoàn kết với nhau hơn. Một vị độc giả Người Việt viết: “Hy vọng những người còn sống,
vì lòng thương tiếc Việt Dzũng sẽ nhận ra họ cần phải làm gì để xứng đáng với những điều Việt Dzũng đã mang đến cho chúng ta trong thời gian anh sống trên cõi trần này.” Một nhà văn khác viết: “Có thể nói đây là cái chết gây xúc động nhất trong cộng đồng hải ngoại từ gần 40 năm nay. Không riêng gì đồng bào hải ngoại tiếc thương Việt Dzũng. Blog Người Buôn Gió ở trong nước cũng bày tỏ tình thương tiếc.”
Những
ai đã sống trong vùng Little Saigon đều biết có hai lần người Việt tị nạn trong vùng đã biểu lộ tấm lòng chung của mình một cách bồng bột và sôi nổi. Lần đầu là cuộc biểu tình kéo dài nhiều ngày đêm phản đối việc treo hình, treo cờ cộng sản trong một cửa tiệm ở đường Bolsa. Lần thứ hai là đám tang Việt Dzũng. Không ai bảo ai, tất cả mọi người cùng biểu lộ, vì cùng nhau chia sẻ một tấm lòng. Lần trước, là một cơn giận dữ bùng nổ. Lần này là tình yêu thương, quý mến một người bạn, một người anh, một đứa con đã qua đời sớm quá. Mọi người chia sẻ với nhau những lời tiếc thương, những giọt nước mắt; như một thi sĩ quá cố viết: “Những
vì sao rụng bỗng đầy lệ nhân gian.”
Ai đã chứng kiến
hai biến cố kể trên, có thể hiểu hai chữ “lòng dân.” Lúc bình thường, không ai biết lòng dân thế nào. Có thể đoán được lòng dân, nhưng trong những lúc bình thường không trông thấy nó hiện ra cụ thể thì vẫn nửa tin
nửa ngờ. Nhưng bỗng có một biến cố, bỗng thấy lòng dân mở ra trước mắt.
Muôn người như một, không ai bảo ai, tất cả xuất hiện cùng một lúc, xuống đường, phơi bày gan ruột của mình. Phải nhìn thấy tận đáy sâu tấm lòng đó, lúc bình thường vẫn chất chứa những nỗi giận, niềm đau, những tình yêu thương tha thiết mặc dù không ai nói ra. Đến một ngày, một giờ nào đó, đúng lúc, lòng người cùng biểu hiện. Tuy chỉ trong một thời gian
có giới hạn, nhưng chúng ta biết những tình tự vẫn chất
chứa trong tim óc hàng triệu người, suốt bao nhiêu năm, chờ một biến cố
sẽ nổ bùng.
Nguyễn
Văn Khanh kể lần cuối cùng gặp nhau, Việt Dzũng nói: “Anh em mình còn quá nhiều việc phải làm, em không biết mình có làm được hết hay không?”
Có
thể coi đó là một lời nhắn nhủ của Việt Dzũng cho những người còn sống.
Việt Dzũng đã thành một biểu tượng. Anh làm tôi nhớ đến một biểu tượng của thanh niên Canada là Terry Fox. Năm 1980, Terry Fox 22 tuổi, anh đã mất một chân vì bạo bệnh, và biết mình không còn sống được bao lâu. Anh đã thực hiện một “Cuộc hành trình hy vọng” (Marathon of Hope), quyết tâm
đi bộ với hai cây nạng, từ Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương dọc theo chiều ngang nước Canada. Mục đích chuyến đi là gây quỹ, anh yêu cầu mọi người góp vào một quỹ nghiên cứu y học, mong có ngày
nhân loại sẽ có thuốc trừ được căn bệnh ung thư đang cướp dần cuộc đời anh. Để thực hiện cuộc hành trình này, Fox đã tập luyện hơn một năm trời, đã dự một cuộc chạy đua marathon và anh đi suốt 40 cây số, về sau chót. Năm 1981, Fox qua đời. Từ đó, hàng năm nhiều người đã tổ chức các cuộc hành trình hy vọng như Fox, trên khắp thế giới.
Cả
cuộc đời Việt Dzũng là một cuộc hành trình hy vọng. Việt Dzũng hy vọng điều gì? Như tất cả chúng ta, anh mong xây dựng một nước Việt Nam dân chủ tự do, công bình, bác ái.
Chúng
ta sẽ tiếp tục cuộc hành trình hy vọng mà Việt Dzũng bắt đầu. Nước Việt
Nam đang sống trong cảnh “tiền cách mạng.” Tâm tư người dân hiện còn chìm ẩn. Những oan ức, những thống khổ, những khát vọng, chất chứa dưới đáy sâu trong lòng. Sẽ có ngày người Việt Nam ở trong nước sẽ phơi bầy tấm lòng, muôn người như một, không ai bảo ai. Chỉ cần một biến cố châm ngòi, lòng dân cháy bùng lên, không chế độ bạo tàn nào kiềm chế được.
NGÔ NHÂN DỤNGGửi ý kiến của bạn