1:24 CH
Thứ Năm
28
Tháng Ba
2024

Viết lại tên Bách Việt - Nguyễn Đại Việt

26 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 11207)
Sau khi hợp lực đánh đổ nhà Tần năm 206 trước Công Nguyên (TCN), Lưu Bang bất thần xé bỏ hòa ước Hồng Câu xua quân bao vây Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ và diệt nước Sở năm 202 TCN. Cùng năm đó, ông lên ngôi hoàng đế sáng lập ra nhà Hán còn gọi là nhà Tiền Hán hay nhà Tây Hán. Về chữ viết, Hán triều tiếp tục chính sách của Tần Thủy Hoàng trong việc sửa đổi và tiêu chuẩn hóa một loại cổ ngữ thành một hệ thống chữ viết gọi là Hán ngữ.

Trong khoảng từ năm 109 đến năm 91 TCN, Tư Mã Thiên, một sử gia nổi tiếng đời Tây Hán, dùng Hán ngữ biên soạn bộ Sử Ký dài 130 tập, theo chú thích trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, ông là người đầu tiên viết hai chữ Bách Việt trong tập Ngô Khởi Truyện của bộ Sử Ký nổi tiếng đó. “Bách Việt” được dịch sang Hán ngữ hiện đại là 百 越.

blank
Hình 1: Chữ “Việt” (bên trái) viết theo lối chữ Triện thời Tây Hán. Chữ “tẩu” (thứ hai từ trái sang phải) dùng để xác định ý nghĩa và chữ “người cầm qua” (bên phải) dùng xác định cách phát âm. Chữ cuối phát âm là “Việt” có hình tượng giống như một người cầm cái qua (戈). Trong Hán ngữ chữ “qua” (戈) có nghĩa là “cái mác” hoặc “chiến tranh”.

Một bộ sử khác do Ban Bưu khởi xướng, bộ Hán Thư (漢書) gồm 100 tập, cũng được soạn thảo vào thời Tây Hán chép rằng:

“Trong vòng bảy hoặc tám nghìn dặm từ Giao Chỉ tới Hội Kế (Cối Kê), ở đâu cũng có Bách Việt, mỗi nhóm có các thị tộc của mình.”

Bách Việt mà hai bộ Sử Ký và Hán Thư đề cập đến chính là chủ nhân của vùng đất rộng lớn, bao trùm toàn cõi Hoa Nam và miền Bắc Việt Nam ngày nay; ngoại trừ Lạc Việt (Việt Nam) các thị tộc Bách Việt khác đều bị Hán tộc tiêu diệt, đồng hóa và chiếm đoạt hết lãnh thổ.

Theo Hán ngữ hiện đại, tên các thị tộc của Bách Việt được viết là 於 越 (Ư Việt), 揚 越 (Dương Việt), 閩 越 (Mân Việt), 南 越 (Nam Việt), 東 越 (Đông Việt), 山 越 (Sơn Việt), 雒 越 (Lạc Việt), 甌 越 (Âu Việt), v.v…tất cả các tên đều gắn liền với chữ 越, gọi là “chữ Việt bộ Tẩu”. “Tẩu” có nghĩa là “chạy” nhưng không hiểu vì sao sử gia Lê Văn Hưu thời nhà Trần khi biên soạn quyển Đại Việt Sử Ký (大越史記) năm 1272 và sử gia Ngô Sĩ Liên, triều vua Lê Thánh Tông, khi viết quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (大越史記全) năm 1479, vẫn sử dụng chữ “Việt bộ Tẩu” của nhà Tiền Hán.

Bài viết này gồm 2 phần. Phần chính giới thiệu chữ “Việt” nguyên thủy của người Việt cổ đồng thời chứng minh “chữ Việt bộ Tẩu” của nhà Tây Hán là một bản dịch sai của chữ “Việt” đó. Phần còn lại, phần phụ, trình bày một cái nhìn, một cảm nhận cá nhân về chữ “Việt” của một vị vua sống trong thế kỷ thứ 5 TCN.

CHỮ “VIỆT” CỦA BÁCH VIỆT

Tại sao chủng tộc Bách Việt lại tự nhận diện qua một cái tên không phản ảnh một chút sắc thái nào của mình? Nguyên do nào khiến tên của một chủng tộc từng làm chủ một lãnh thổ rộng lớn lại mang ý nghĩa bi quan như thế?

Ngày nay, khi tìm hiểu ý nghĩa chữ “Việt” giới nghiên cứu không tránh khỏi ngạc nhiên và băn khoăn bởi những câu hỏi tương tự trên đây. Mặc dù có những nổ lực bỏ ra nhằm khám phá những bí ẩn đàng sau chữ “Việt bộ Tẩu”, nhưng đến nay tuyệt nhiên vẫn chưa có một giải thích thuyết phục nào được công nhận một cách rộng rãi. Sỡ dĩ có sự bế tắc đó là vì họ đã nghiên cứu một cái tên sai. Quả vậy, chữ 越 hay “Việt bộ tẩu” không phải là do người Việt cổ đặt ra, nó chỉ là một phiên bản được các sử gia và học giả của triều đình Tây Hán dùng Hán ngữ dịch từ chữ “Việt” nguyên thủy vốn đã xuất hiện trước đó ít nhất là 300 năm.

Từ văn tự cổ đến trống đồng và những cổ vật khai quật được đặc biệt là thanh gươm của vua Câu Tiễn, chúng ta sẽ tìm câu trả lời chính xác cho câu hỏi Việt là gì, nó sẽ giải tỏa nghi vấn kéo dài suốt hơn 2000 năm kể từ khi Tư Mã Thiên dùng Hán ngữ đặt bút viết chữ ” Việt bộ Tẩu” (越) trong bộ Sử Ký của ông đến nay. Trong phần này các chữ “Việt” thuộc thời đại đồ đồng sẽ được trình bày và phân tích. Kế đó, thành phần cấu tạo của chúng sẽ được so sánh với thành phần cấu tạo của chữ “Việt bộ Tẩu” và chữ “Việt bộ Kim”.

1. Chữ “Việt” nguyên thủy của người Việt cổ trong thời đại đồ đồng

Giáp Cốt văn là loại văn tự khắc chạm trên mai rùa hay xương động vật. Chữ trên mai rùa gọi là Giáp văn còn chữ trên xương những động vật khác gọi là Cốt văn. Chữ viết khắc chạm trên đồng và kim loại gọi là văn tự thời đồ đồng. Cả hai loại văn tự đều có từ đời nhà Thương và Giáp Cốt văn là loại văn tự cổ xưa nhất. Triều đại nhà Thương xuất hiện trong khoảng từ năm 1600 đến 1046 TCN, kinh đô đóng tại đất Ân thuộc tỉnh Hà Nam, Trung quốc ngày nay. Giặc Ân trong huyền sử Phù Đổng Thiên Vương của người Việt chính là nhà Thương này. Hiện nay có hơn 4.000 văn tự thời đồ đồng được khai quật và trong đó một số chữ “Việt” được ghi nhận. Xin lưu ý là các văn tự đồ đồng và Giáp Cốt văn dùng trong tài liệu này đều được cung cấp từ chineseetomology.org, một website về cổ ngữ rất phong phú và hữu ích của ông Richard Sears.

Sau đây là 5 chữ “Việt” viết bằng loại “chữ chim”, có nơi gọi là “chữ sâu bọ và chim”, một loại cổ ngữ rất phổ biến và thông dụng ở các nước Sở, Việt, và Chu.

a) Chữ “Việt” mang ký hiệu B01747

blankHình 2: Một chữ “Việt” trong thời đại đồ đồng 


Nhận xét chữ mang ký hiệu B01747:

- Người đeo lông chim trên đầu và thắt lưng. Từ đây về sau sẽ gọi là “Người Chim”.

- Người Chim đứng với hai chân dang rộng, tay cầm một cây gậy dựng
đứng trên mặt đất và trên thân gậy có 2 cái móc nhỏ.

- Chữ này chỉ có một thành phần là chính nó.

- Niên đại: không rõ.

b) Chữ “Việt” mang ký hiệu B01748

blank
Hình 3: Một chữ “Việt” trong thời đại đồ đồng

 

Nhận xét chữ mang ký hiệu B01748:

- Thành phần bên phải là Người Chim.

- Tay Người Chim cầm một vật giống như cái qua (mác).

- Người Chim trong tư thế của một vũ điệu.

- Thành phần bên trái là ký tự gồm một hình tròn nằm trên chữ mang hình tượng có đầu tròn to với một cái đuôi.

- Niên đại: không rõ.

c) Chữ “Việt” mang ký hiệu B01750

blank
Hình 4: Một chữ “Việt” trong thời đại đồ đồng

 

Nhận xét chữ mang ký hiệu B01750:

- Thành phần bên phải là Người Chim.

- Thành phần bên trái gồm một hình tròn nằm trên ký tự có hình tượng giống thân rắn với 2 sừng.

- Niên đại: không rõ.

d) Chữ “Việt” mang ký hiệu B01751

blank
Hình 5: Một chữ “Việt” trong thời đại đồ đồng

 

Nhận xét chữ mang ký hiệu B01751:

- Thành phần bên phải là Người Chim trong tư thế nhảy múa.

- Người Chim không cầm qua hoặc binh khí.

- Thành phần bên trái là một hình tròn nằm trên một cái đầu có đuôi cong.

- Niên đại: không rõ.

e) Chữ “Việt” mang ký hiệu B01749

blank

Nhận xét chữ mang ký hiệu B01749:

- Thành phần bên phải là Người Chim.

- Tay phải của của Người Chim cầm một vật có hình dạng của một cái qua.

- Thành phần bên trái gồm một hình tròn có chấm bên trong và nằm ngay trên ký tự có hình tượng uốn lượn như thân rắn với một cái đầu to, miệng (hoặc 2 sừng) và mắt.

- Niên đại: 496 – 465 TCN. Đây là chữ “Việt” được khắc trên thanh gươm của vua Câu Tiễn nước Việt (khác với Việt Nam).

Kết luận: Khảo sát các chữ “Việt” trên đây chúng ta rút ra được 2 điểm quan trọng,

- Thứ nhất, chữ “Việt” nguyên thủy của người Việt cổ có niên đại trong khoảng từ 496 đến 465 TCN, nghĩa là chúng xuất hiện trước chữ “Việt bộ Tẩu” của nhà Tiền Hán ít nhất 3 thế kỷ.

- Thứ hai, yếu tố chủ đạo của các chữ “Việt” là “Người Chim”. “Qua” hay binh khí là yếu tố phụ.

2. Chữ “Nước” (Quốc gia) trong thời đại đồ đồng

Theo định nghĩa của chữ 邑 (ấp), một trong các ý nghĩa của nó là “nước” hay “quốc gia”. Ví dụ như “nước Chu” (邾: Chu quốc) hay “nước Hàn” (邗: Hàn quốc) thời Xuân Thu và Chiến Quốc.

blankHình 7: Chữ “ấp” trong thời đại đồ đồng. Chữ này có nghĩa là “nước”, “quốc gia”, “kinh đô, “thành thị” hoặc là vùng đất được vua ban cho.

blankHình 8: “Chu quốc” nghĩa là “nước Chu” theo cách viết trong thời đại đồ đồng (trái) và thời chữ Triện (phải).

Trong chữ “Chu quốc” nghĩa là “nước Chu” (hình 8), chữ “nước” được đặt sau chữ “Chu”, khác với cách viết của người Việt là chữ “nước” được đặt trước như trong các chữ “Việt” của thời kỳ đồ đồng và cách viết hiện nay của người Việt Nam. Tương tự, chữ “nước” được dùng trong chữ “Hàn quốc” (nước Hàn) trong hình 9.

 

blankHình 9: “Hàn quốc” nghĩa là “nước Hàn” theo cách viết trong thời đại đồ đồng (trái) và theo lối chữ Triện (phải).

Hiện nay có tất cả 31 chữ “邑” (ấp) thuộc thời kỳ đồ đồng (hình 7) được ghi nhận.

3. Chữ “Tẩu” trong thời đại đồ đồng

 

Chữ 走 (Tẩu) là thành phần bên trái của chữ 越, chữ “Việt bộ Tẩu”, viết theo Hán ngữ hiện đại.

blankHình 10: Chữ “Tẩu” (Hán ngữ: 走) trong thời kỳ đồ đồng.

So sánh chữ “nước” (hình 7) với chữ “tẩu” của thời kỳ đồ đồng (hình 9) thì hai chữ này hoàn toàn khác nhau từ hình thức đến nội dung. Hơn nữa “nước” là một danh từ còn “tẩu” là một động từ. Hiện có 17 chữ “Tẩu” thuộc thời đại đồ đồng được ghi nhận (hình 9).

4. Chữ “Kim” thời đại đồ đồng

Trong hình 11 và phía trên là một số cách viết chữ chữ “Kim” trong thời đại đồ đồng. Ở dưới và bên trái là chữ “Gươm”, chữ cuối trong 8 chữ được khắc trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Thành phần bên trái của chữ “Gươm” chính là chữ “Kim”.

blankHình 11: Các cách viết chữ “Kim” trong thời đại đồ đồng (trên). Chữ “Kim” là phần trái của chữ “Gươm” (hình dưới, bên phải) và chữ “Nước” là phần trái của chữ “Việt” (hình dưới, bên trái) trên thanh gươm của vua Câu Tiễn.
Cũng trong hình 11, ở dưới và bên trái, chữ “Việt” là chữ đầu tiên trong 8 chữ cổ trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Phần bên trái của chữ “Việt” không thể là chữ “Kim” vì không bao giờ có 2 chữ “Kim” khác nhau được khắc trên cùng một thanh gươm, nhất là thanh gươm của một ông vua. Hơn nữa về hình thức thì 2 chữ 邑 (Ấp, hinh 7) và 金 (Kim, hình 11) hoàn toàn khác nhau. Hiện nay có tất cả 82 chữ “Kim” thuộc thời đại đồ đồng được ghi nhận.


Kết luận:
Thành phần bên trái của chữ “Việt” nguyên thủy chính là chữ “邑” (ấp) và được viết bằng “văn tự chim”, một loại chữ cổ có trước Hán ngữ và rất thông dụng ở các nước Sở, Việt, và Chu.

5. Chữ “Người Chim” trong chữ “Việt” nguyên thủy và chữ “người cầm qua” (戉) trong “chữ Việt bộ Tẩu” của nhà Tây Hán

“Chữ Việt bộ Tẩu” của triều đình nhà Tây Hán viết theo Hán ngữ hiện đại gồm 2 thành phần. Phần bên trái là chữ “Tẩu” dùng để xác định ý nghĩa của toàn chữ và phần bên phải là chữ “Việt” dùng để phát âm (hinh 12).

blankHình 12: “Việt bộ tẩu” viết theo Hán ngữ hiện đại.

Chữ bên phải của chữ “Việt bộ Tẩu” mang hình tượng một người cầm qua, chữ này có gốc từ chữ 戈 của Hán ngữ và có nghĩa là “Qua”, ‘Mác” hay “Chiến tranh”. Chữ 戉 (người cầm qua) trong chữ “Việt bộ Tẩu” không phải là thành phần cấu tạo của chữ “Việt” nguyên thủy.

blankHình 13: Một cách dịch chữ “Người Chim” của người Việt cổ sang Hán ngữ hiện đại. Lưu ý là Hán ngữ không có chữ này.

Thật vậy, từ chữ “Việt” trong thời kỳ đồ đồng đến hàng trăm trống đồng được khai quật ở Việt Nam và vùng Hoa Nam, tất cả đều thể hiện một quan niệm đồng nhất của người Việt cổ khi dùng các yếu tố chủ đạo để tự nhận diện và yếu tố đó chính là “Người Chim” tay cầm qua hay binh khí (hình 13).

 

blankHình 14: “Người Chim” trên trống đồng Ngọc Lũ. Nguồn: Wikipedia.

Cho đến nay số lượng chữ “Việt” thuộc thời đại đồ đồng khai quật được tuy không nhiều nhưng quan trọng là tất cả đều thể hiện tính nhất quán cả về nội dung lẫn hinh thức. Vì vậy, có thể tiên đoán rằng đối với bất kỳ chữ “Việt” nào có trước thời Tiền Hán và được viết theo “văn tự chim” thì xác xuất để nó mang cùng nội dung và hình thức với 5 chữ “Việt” trình bày trên đây rất cao.

blank
Hình 15: Một ví dụ của chữ “Việt” được dịch sang Hán ngữ hiện đại từ chữ “Việt” nguyên thủy. Bên trái là chữ ấp (邑: nước), bên phải là chữ “Người Chim” tay cầm qua và phát âm là “Việt”. Toàn chữ viết và đọc là “nước Việt”. Trong Hán tự không có chữ này. Hán ngữ hiện đại dùng chữ 國 (quốc, nước, quốc gia) thay thế cho chữ 邑 (ấp, nước, quốc gia).


Kết luận:


Chữ “Việt” nguyên thủy của người Việt cổ có niên đại từ 496 – 465 TCN, xuất hiện trước chữ “Việt bộ Tẩu” của nhà Tây Hán ít nhất 300 năm và được cấu tạo bởi hai thành phần duy nhất là chữ “Nước” (邑) ở bên trái và chữ “Người Chim” tay cầm qua ở bên phải . “Người Chim” được phát âm là “Việt” và là yếu tố chủ đạo, còn “qua” hay binh khí là yếu tố phụ (hình 15).

oOo

Từ các chứng cớ lịch sử vững chắc đã được công bố bao gồm văn tự của thời đại đồ đồng, hoa văn trên trống đồng, và cổ ngữ trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, những phân tích trên đây chứng minh rằng dù được viết bằng Hán ngữ thời Tây Hán hoặc hiện đại thì nội dung và hinh thức của chữ 越, chữ Việt bộ tẩu và 2 thành phần của nó 走 và 戉, hoàn toàn không phải là chữ “Việt” của Bách Việt, nó chỉ là một phiên bản được dịch từ chữ “Việt” nguyên thủy vốn đã có trước khi nhà Tây Hán thành lập 3 thế kỷ. Hán sử không trung thực khi ghi chép về Việt tộc, đó là sự thật, và điều đáng tiếc là Tư Mã Thiên, dù với bất kỳ lý do nào, đã xem nhẹ kiến thức và uy tín của tác giả bộ Sử Ký nổi tiếng khi dịch sai tên một chủng tộc. Ông đã bị chính trị ảnh hưởng, hay nói một cách chính xác hơn, đó là một nhầm lẫn được suy tính chu đáo của triều đình nhà Tây Hán trong chính sách tiêu diệt và đồng hóa các thị tộc Bách Việt.


PHỤ LỤC: MỘT CÁCH DỊCH CHỮ “VIỆT” SANG HÁN NGỮ

Chúng ta bắt đầu phần này bằng một câu chuyện về nước Oa (Wa), một quốc gia nằm trong vùng biển phía đông của Hoa lục. ” Oa” viết theo Hán ngữ là 倭, là tên do người Hán đặt cho dân tộc này và được họ dùng trong nhiều thế kỷ để tự nhận diện và khi giao tiếp với các triều đình Trung Hoa.

Mãi đến thế kỷ thứ 8, sau khi khám phá ra thâm ý phía sau tên Oa, học giả và trí thức người Oa lập tức dùng một tên khác để thay thế. Chữ Oa (倭) mang ý nghĩa châm biếm và xúc phạm như “phục tùng” hay “thằng lùn”, còn tên mới 和 có nghĩa là “hài hòa, hòa bình, và quân bình. “Đại Hòa” (大 和) từng là tên của nước Oa sau thế kỷ thứ 8. Ngày nay người Oa dùng một tên khác mà người Việt thường ưu ái gọi họ là “con cháu Thái Dương Thần Nữ”. Đó là đất nước và dân tộc Nhật Bản (日本).

Trong phần chính chữ “Việt” được phân tích theo phương pháp khoa học và căn cứ trên những chứng cớ cụ thể đã được công nhận. Trong phần này ý nghĩa của chữ “Việt” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn được suy diễn đơn thuần dựa theo phong tục tập quán của người Việt và vì vậy cách dịch chữ “Việt” ở đây sẽ không hoàn toàn khách quan.

1. Chính sử: Thanh gươm của vua Câu Tiễn

Câu Tiễn là một người Việt cổ, làm vua nước Việt từ năm 496 đến 465 TCN. Vương quốc của ông lúc bấy giờ bao gồm Thượng Hải, Chiết Giang và Giang Tô ngày nay và kinh đô đặt tại Hội Kế (Cối Kê) trong tỉnh Chiết Giang. Tỉnh Chiết Giang là nơi có con sông Tiền Đường, giòng sông nơi Thúy Kiều gieo mình tự vẫn nhưng được sư Giác Duyên cứu sống trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn Du. Khoảng năm 333 TCN, dưới thời của vua Vô Cương là cháu đời thứ 6 của vua Câu Tiễn, nước Việt bị nước Sở thôn tính và thị tộc U Việt mất nước từ đây.

Tuy vậy, câu chuyện của vị vua người Việt cổ chưa chấm dứt ở đó. Vào năm 1965 người ta khai quật được thanh gươm của ông ở tỉnh Hồ Bắc, Trung quốc và hiện được trưng bày tại viện bảo tàng của tỉnh này (hình 16).

blank
Hình 16: Thanh gươm của vua Câu Tiễn được khai quật năm 1965 hiện được trưng bày tại viện bảo tàng Hồ Bắc, Trung quốc. Nguồn: uncleicko. 

2. Chữ “Việt” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn: một cái nhìn khác

Cảm nhận đầu tiên là sự khác thường của chữ “nước” ( 邑) trong chữ Việt trên thanh gươm so với chữ “nước” ( 邑) của các chữ “Việt” khác trong thời đại đồ đồng. Chính sự khác thường đó là nguồn cảm hứng cho phần này, ngoài “Người Chim”, trong chữ “Việt” còn có thêm 2 yếu tố khác.

blank
Hình 17: Tám chữ cổ khắc trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Tám chữ này được viết theo lối điểu ngữ (còn gọi là trùng ngữ). Theo thứ tự chúng được dịch là “Việt Vương Câu Tiễn Tự Tác Dụng Gươm” có nghĩa là “Thanh gươm của Vua Câu Tiễn nước Việt tự làm để dùng”. Hán tự không có chữ “Gươm”. Nhà nghiên cứu Đỗ Thành có phân tích về chữ “Gươm” và “Kiếm” trong bài “Chữ Kiếm trong thanh Gươm của Việt Vương Câu Tiễn”. Nguồn: Wikipedia.Trong hình 18, theo nhận xét thiên về mặt phong tục tập quán và huyền sử hơn là phương diện khoa học và ngữ văn thì chữ “Việt” trên thanh gươm gồm 3 thành phần thay vì 2 như đã trình bày. Ba thành phần đó là các chữ “Mặt Trời”, “Rồng”, và “Người Chim”.
blankHình 18: Chữ “Việt” (bên trái) trên thanh gươm của vua Câu Tiễn và 3 thành phần cấu tạo của nó.

Trong các phần kế tiếp, các chữ “Mặt Trời” và “Rồng” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn sẽ được so sánh với cách viết các chữ “Mặt Trời” và “Rồng” trong thời kỳ Giáp Cốt Văn và thời đại đồ đồng. Kế tiếp, hoa văn khắc trên trống đồng sẽ được dùng để thiết lập mối tương quan với các chữ “Mặt Trời”, “Rồng”, và “Nguời Chim” trong chữ “Việt” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Cuối cùng, huyền sử “Rồng Tiên” phát xuất từ đời sống thực tế hằng ngày của người Việt cổ được dùng để góp phần nêu lên sắc thái chung mà người Việt cổ dùng để tự nhận diện và phân biệt họ với các chủng tộc khác.

3. Chữ “Mặt Trời” trong Giáp Cốt Văn và trong chừ “Việt” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn

Theo Giáp Cốt Văn (hình 19) và cổ ngữ trong thời đại đồ đồng (hình 20), chữ “Mặt Trời” được viết như là một hình tròn hoặc là một hình có 4 cạnh với một cái chấm hay một gạch ngang nằm bên trong. Hình thức hay cách viết của chữ “Mặt Trời” trong các thời kỳ đó thì duy nhất, nghĩa là:

a. Không có bất kỳ chữ nào mang ý nghĩa khác được viết với hình thức đó.

b. Bất kỳ chữ nào được viết với hình thức như vậy đều có nghĩa là “Mặt Trời”.

Vì vậy, một thành phần của chữ “Việt”, chữ thứ hai tính từ trái sang phải trong hình 18, được xem là chữ “Mặt Trời”.

blank
Hình 19: Chữ “Mặt Trời” trong thời đại Giáp Cốt Văn.

blank
Hình 20: Chữ “Mặt Trời” trong thời đại đồ đồng.

4. Chữ “Rồng” trong Giáp Cốt Văn và trong chừ “Việt” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn

Trong Giáp Cốt Văn (hình 21), chữ “Rồng” là một hình thù cong như thân rắn với một cái đầu to có 2 sừng và đôi khi trên đầu đội vương miện.

blank
Hình 21: Bên phải là một số cách viết chữ “Rồng” trong thời kỳ Giáp Cốt văn. Bên trái là một thành phần cấu tạo nên chữ “Việt” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, nó giống chữ “Rồng” của Giáp Cốt văn, có thân uốn lượn như mình rắn với một cái đầu to có mắt và 2 sừng.


5. Chữ “Rồng” trong thời đại đồ đồng và trong chữ “Việt” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn

Hình 22 trình bày là các chữ “Rồng” trong thời kỳ đồ đồng. Trong giai đoạn này chữ “rồng” được viết sắc sảo hơn với đầu to, miệng và răng, có hai sừng và đội vương miện.

blank
Hình 22: Bên phải là các cách viết chữ “Rồng” trong thời đại đồ đồng. Bên trái là một thành phần cấu tạo nên chữ “Việt” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, nó giống chữ “Rồng” của thời đại đồ đồng, có thân uốn lượn như mình rắn với một cái đầu to có mắt và 2 sừng.


So với chữ “Rồng” của các thời kỳ Giáp Cốt văn và đồ đồng thì một trong các thành phần cấu tạo nên chữ “Việt” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, chữ thứ 3 tính từ trái sang phải trong hình 18 được cho là chữ “Rồng”.

6. Trống đồng: Chính sử của Bách Việt

Khi toàn bộ Bách Việt ở vùng Hoa Nam bị tiêu diệt và đồng hóa, sử sách của họ cũng cùng chung số phận. Tuy Lạc Việt (Việt Nam) tránh được nạn diệt vong và mất nước nhưng sử sách cũng bị Hán tộc thiêu hủy. Quyển quốc sử cổ xưa nhất của Lạc Việt còn lưu lại là quyển Đại Việt Sử Ký (大越史記) của sử gia Lê Văn Hưu thời nhà Trần, quyển này cũng chỉ mới được biên soạn vào năm1272.

May thay, để bổ sung phần nào vào thiếu sót đó là hàng trăm trống đồng cùng những di tích và cổ vật của người Việt cổ được khai quật ở Việt Nam và vùng Hoa Nam trong các thế kỷ qua. Sau đây là sự thật đã được xác lập:

- Hán tộc không có trống đồng.

- Trống đồng do chính người Việt cổ thiết kế và chế tạo.

- Minh văn trên trống đồng phản ảnh sắc thái chủ đạo trong đời sống thực tế của người Việt cổ.

Vì vậy trống đồng là một quyển chính sử của chủng tộc Bách Việt.

7. “Mặt Trời” trong chính sử trống đồng

Về yếu tố “Mặt Trời” thì hiển nhiên không cần lời giải thích dài dòng vì tất cả những trống đồng khai quật được đều có chạm trổ mặt trời ở chính giữa tang trống. Do đó “Mặt Trời” đương nhiên là một yếu tố chủ đạo trong đời sống của người Việt cổ.

blank
Hình 23: Một ví dụ của chữ “Việt” nguyên thủy được dịch ra Hán ngữ hiện đại. Nó gồm chữ “Nhật” (Hán ngữ: 日 nghĩa là mặt trời – phần bên trái và nằm ở trên), chữ “Long” (Hán ngữ: 龍 nghĩa là “rồng” – phần bên trái, ở dưới), và bên phải là chữ “người đeo lông chim trên đầu và thắt lưng, tay cầm cái qua” , lưu ý là Hán ngữ không có chữ này.


8. “Rồng” từ đời sống thực tế đến huyền sử

Huyền sử “Con rồng cháu tiên” là câu chuyện thần thoại không có thật nhưng nó phát xuất từ sự việc có thật trong đời sống hằng ngày của người Việt cổ. Chính sử Việt và Trung Hoa ghi nhận rằng dân Bách Việt có tục xâm mình, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép như sau:

Vua nói: “Người man ở núi khác với các loài thủy tộc; các thủy tộc ấy ưa cùng loài mà ghét khác loài, cho nên mới bị chúng làm hại. Rồi vua bảo mọi người lấy mực vẽ hình thủy quái ở mình. Từ đấy thuồng luồng trông thấy không cắn hại nữa.

Từ nhận định trên người Việt cổ đã nghĩ ra phương pháp xâm mình để tự bảo vệ khi di chuyển và mưu sinh trên sông hồ. Xâm mình là để thuồng luồng hay giao long “tưởng” họ cùng đồng loại nên sẽ không bị chúng gia hại.

Thoạt tiên mục đích xâm mình đơn thuần chỉ là một biện pháp tự vệ đơn giản, nhưng dần dà, khái niệm tự nhận mình cùng đồng loại hay cho mình là con cháu của rồng được hình thành một cách tự nhiên trong tâm thức của những thế hệ sau. Đồng loại với rồng không phải là câu chuyện thần thoại dựa trên một việc hoang đường, trái lại nó bắt nguồn từ ngay trong đời sống thực tế hằng ngày của người Việt cổ nên “Rồng” được xem là một yếu tố chủ đạo trong đời sống của dân Bách Việt.

9. “Người Chim” trong chính sử trống đồng

Tùy theo niên đại và thị tộc khác nhau, các trống đồng được khai quật có kích thước, phẩm chất và những minh văn khác nhau, nhưng đặc biệt hầu hết các trống đồng đều có chạm trổ những Người Chim, tay cầm qua hay binh khí và ở trong tư thế nhảy múa. Tương tự như sự hình thành khái niệm “con Rồng”, khái niệm “cháu Tiên” được bắt nguồn từ phong tục hóa trang thành Người Chim, một trong những tập quán nổi bật nhất của của người Việt cổ.

oOo

Tóm lại nếu có ai hỏi Việt là gì thì câu trả lời nên là: Việt là “Mặt Trời”, là “Rồng”, là “Người Chim” (Tiên). Đó là 3 yếu tố chủ đạo để nhận diện chủng tộc Bách Việt. Khái niệm Rồng của Bách Việt phát xuất từ đời sống thực tế qua phong tục xâm mình còn khái niệm Rồng của Hán tộc thì bắt nguồn từ đâu? Thắc mắc này được dùng để kết thúc phần phụ lục.

KẾT LUẬN

Tại sao nhà Tiền Hán không sửa đổi tên các nước Chu, Tề, Hàn, Triệu, v.v… mà họ lại đặc biệt làm điều này đối với Bách Việt? Chắc chắn sẽ có nhiều câu trả lời và chúng có thể không giống nhau. “Việt” là tên gọi chung của các chủ nhân vùng đất phía nam Trường Giang, dùng “Việt” thì có khã năng hiệu triệu và thống nhất toàn thể Việt tộc, tạo nên một sức mạnh có khã năng đối đầu và thách thức quyền lực của Hán triều trên toàn vùng Lĩnh Nam và Giao Chỉ. Chẳng hạn như sự trỗi dậy và hùng cường của các vương quốc Việt tộc như Sở, Ngô, và Việt thời Xuân Thu Chiến Quốc, hoặc chính nhờ sự hậu thuẫn của Bách Việt nên Triệu Đà mới dám xưng Nam Việt Vũ Đế tạo được thanh thế ngang ngửa với nhà Tây Hán, hay sự đồng loạt hưởng ứng của các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đối với cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40, v.v… Nói chung nếu không tiêu diệt và đồng hóa được Bách Việt thì Hán tộc sẽ không bao giờ chiếm và bình định được vùng đất phía nam dãy núi Ngũ Lĩnh. Bắt đầu chính sách ấy với việc cấm dùng chữ “Việt” nguyên thủy và thay bằng một tên khác, chữ “Việt bộ Tẩu”, người Hán đã thành công lấy được toàn cõi Hoa Nam; nhưng chưa dừng lại ở đó, họ vẫn đang tiếp tục tràn xuống và mục tiêu lần này là Biển Đông Nam Á và căn cứ cuối cùng của Việt tộc.

Lịch sử Bách Việt chứng tỏ không kém phần phong phú khi được hé lộ qua kỹ thuật đúc gươm, trống đồng, cùng những di tích và cổ vật khác được khai quật trong vài thế kỷ qua, đáng tiếc là nền văn minh và văn hóa ấy đã liên tục bị tiêu diệt trong suốt hơn 1000 năm, lãnh thổ thì mất cả chỉ còn lại một dãi nhỏ hẹp. Bị gián đoạn hơn 10 thế kỷ khiến sử Việt thiếu hẳn phần đầu, có chăng thì cũng mù mờ, đầy bí ẩn; phần sau của lịch sử cũng chỉ mới bắt đầu khi người anh hùng xứ Đường Lâm, Tiền Ngô Vương Ngô Quyền, thành công bảo vệ thành trì cuối cùng của Bách Việt bằng một trận đánh đẫm máu trên sông Bạch Đằng năm 938.

Từ kỷ nguyên Internet đọc lại chính sử trên văn tự cổ, trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, trên trống đồng, và đời sống thực tế của người Việt cổ, hậu duệ của họ không những có trách nhiệm viết đúng lại tên Bách Việt để phản ảnh sự nhất quán của cổ nhân về tên chủng tộc, mà còn có bổn phận đào xới và minh bạch hóa lịch sử của chủng tộc vốn là chủ nhân của một lãnh thổ rộng lớn và trù phú. Vì vậy, viết lại tên Bách Việt là khởi đầu cho công cuộc làm sáng tỏ giai đoạn lịch sử bị gián đoạn, đồng thời cũng là lời mở đầu cho một quyển sử mới với hy vọng trong đó có chép cuộc hành trình về lại vùng Lĩnh Nam của hậu duệ người Việt cổ.

Thung lũng Hoa vàng

Nguyễn Đại Việt

Mồng Một Tết Nhâm Thìn tức ngày 23 tháng 1 năm 2012

Tác giả Nguyễn Đại Việt là tiến sĩ trong ngành điện toán, chuyên nghiên cứu và phát triển Integrated Circuits và Microprocessor cho kỹ nghệ Semiconductor. Ông là thành viên trong Ban nghiên cứu Á Châu của Nguyễn Thái Học Foundation.

Nguồn: http://www.nguyenthaihocfoundation.org/lichsuVN/viet-lai-ten-Bach-Viet.htm

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
04 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 10058)
trong thời đại truyền thông điện tử, nông dân, công nhân không đơn thuần là cơ bắp. Huống chi các giới nầy đã trải qua bao nhiêu kinh nghiệm bị cọng sản lọc lừa nên tự thân đã biết tổ chức đấu tranh.
03 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 11028)
Vấn đề chính là khi còn sống, chúng ta hãy sống lương thiện, giúp đỡ mọi người, tránh làm việc ác thì như Đức Dalai Lama nói,
03 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 9404)
Vậy mà phút chốc đã 37 năm rồi. Mọi chuyện hình như vẫn những tuồng cũ được diễn lại với đào kép mới.
02 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 9674)
Có thể nói rằng toàn thể đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước vô cùng thất vọng, bất bình và phẫn nộ với Bản Hiến Pháp "Bình Mới Rượu Cũ" này
26 Tháng Mười Một 2013(Xem: 12476)
hình ảnh cũ của một thời miền Nam xây dựng và phát triển
25 Tháng Mười Một 2013(Xem: 12717)
Phần bà Nhu đã chết kể từ ngày ấy. Nhưng bà chết đến hai lần: chết cho ông Nhu và nền đệ nhất cộng hoà và chết cho chính bà, cho cuộc sống hiện nay.
25 Tháng Mười Một 2013(Xem: 15102)
Người nào đứng về phía nhân dân thì tương lai sẽ mở cửa ra với họ, còn ai chống lại nhân dân là tự sát
23 Tháng Mười Một 2013(Xem: 10651)
Trí thức ươn hèn không xương sống Mở miệng hô hào Chấn dân khí Chỉ biết sống phần mình Nõ mồm hậu dân sinh
18 Tháng Mười Một 2013(Xem: 10092)
Một chính phủ độc đảng độc tài toàn trị thì chẳng khác nào một môi trường yếm khí chỉ thuận lợi cho các loài vi khuẩn độc hại sinh sôi nãy nở và bội phát
17 Tháng Mười Một 2013(Xem: 11469)
Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam, đi đâu cũng bị soi xét, chúng tôi buồn lắm, chúng tôi muốn đất nước mình mạnh lên
16 Tháng Mười Một 2013(Xem: 14554)
Là một nghệ sĩ có niềm đam mê to lớn dành cho văn hóa Á Đông, đặc biệt là Việt Nam, Nancy Dương đã dùng kỹ thuật số hiện đại để thổi sức sống mới vào các giá trị truyền thống của người Việt.
15 Tháng Mười Một 2013(Xem: 12362)
Đầu năm 1955 đánh dấu ngày tàn của Grande Monde, khi chính quyền Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh dẹp sòng bạc lớn nhất Đông Nam Á.
15 Tháng Mười Một 2013(Xem: 10755)
Có hai mặt trong Phạm Xuân Ẩn mà chúng ta không thể hiểu được. Nhìn lui dĩ vãng, tôi thấy y là một con người bị xé làm đôi ở phiá giữa
15 Tháng Mười Một 2013(Xem: 10353)
Xã hội công bằng không phải tự nó có được hay do ban bố của giới chức cầm quyền, mà có được từ quá trình đấu tranh nghị viện thông qua các chính sách an sinh xã hội.
11 Tháng Mười Một 2013(Xem: 10215)
Tiêu biểu: Cuộc nổi dậy Mỹ Yên, Nghệ An: Hàng ngàn giáo dân bao vây, uy hiếp cả chủ tịch xã phải ký giấy cam kết thả người bị chúng bắt
03 Tháng Mười Một 2013(Xem: 10279)
Việc hàng năm và đặc biệt năm nay có nhiều người, nhiều nơi tổ chức tưởng niệm, cầu nguyện cho ông chứng minh điều đó.
03 Tháng Mười Một 2013(Xem: 10607)
Cho nên muốn thoát khỏi tai ách Tàu đỏ để Đông hòa Tôn Quyền, Bắc cự Tào Tháo thì trước tiên phải đánh đuổi bọn thái thú, thổ quan, tay sai Tàu phù ra khỏi khỏi đất nước.
03 Tháng Mười Một 2013(Xem: 9690)
Muốn được như vậy thì điều kiện tiên quyết là phải giải trừ chế độ cọng sản An Nam, xóa bỏ Liên minh 16 chữ vàng. Đó cũng là cách “ Thoát Trung “ duy nhất để cứu dân, cứu nước.
03 Tháng Mười Một 2013(Xem: 10202)
xin kính dâng lên Người một đóa hoa lòng, nguyện xin Đấng Tối Cao cho linh hồn Người Anh Hùng Dân Tộc được yên nghỉ ngàn thu.
02 Tháng Mười Một 2013(Xem: 16019)
Suốt trong đời binh nghiệp, Chuẩn Tướng Trương Quang Ân lúc nào cũng nêu gương sáng về kỷ luật, chỉ biết sống cho Quân Đội, chết cho Quân Đội
02 Tháng Mười Một 2013(Xem: 11405)
“Tây Du Ký” là truyện xuất thế gian, do đó không có dấu ấn cũa Nho giáo. Vì Nho giáo là căn bản cũa đạo nhập thế, thuộc phạm vi hình nhi hạ học mà ngày nay thường gọi là :”Ngoại giáo công truyền” .
02 Tháng Mười Một 2013(Xem: 11103)
Khi nào trí thức, nhân sĩ, lão thành kách mạng thôi lý luận quanh co, tránh né bổn phận phải làm là: Chấm dứt chế độ toàn trị cọng sản phản nước hại dân mà quí vị góp phần xây dựng lên
01 Tháng Mười Một 2013(Xem: 10737)
ĐẠO TRỜI THÌ KHÔNG CHIẾN TRANH NHƯNG CHIẾN THẮNG VẺ VANG, KHÔNG PHÁT NGÔN NHƯNG ỨNG ĐỐI MỘT CÁCH TRÔI CHẢY, KHÔNG BỊ CHIÊU DỤ NHƯNG LẠI TỰ ĐẾN,
29 Tháng Mười 2013(Xem: 9577)
nó cũng đã quá muộn để dập tắt được những sự chỉ trích chua cay về đảng và chính quyền đang được nung nấu tại Việt Nam, cũng như tại Trung Quốc.
29 Tháng Mười 2013(Xem: 10394)
Khách quan và chủ quan, vận nước Việt còn dài, Việt chưa thể mất nước, và rất có thể Trung Hoa sẽ vỡ đổ phân hóa trước khi thực hiện được âm mưu quỷ kế xâm lấn Việt.
23 Tháng Mười 2013(Xem: 11138)
Hai nhà văn có công đầu xây dựng nền văn học quốc ngữ, đặc biệt là báo chí, và có nhiệt tâm cải thiện văn hóa, xã hội của chúng ta trong giai đoạn giao thời giữa Đông và Tây hồi đầu thế kỷ XX
23 Tháng Mười 2013(Xem: 10700)
Nhân ngày kỷ niệm Đệ nhất VNCH 26 tháng Mười, viết đôi dòng tưởng nhớ công đức tiền nhân, về một thời Miền Nam tự do, no ấm
20 Tháng Mười 2013(Xem: 10008)
Không có một ai thay đổi tư tưởng về lập trường quốc gia, trừ một số ít đã là lưu manh thiếu lương thiện từ khi còn trong hàng ngủ VNCH
20 Tháng Mười 2013(Xem: 11841)
chúng tôi yêu cầu đảng cộng sản Việt Nam, Quốc Hội Nước CHXHCN Việt Nam và nhà nước Việt Nam chấm dứt ngay việc làm ngu xuẩn là đề nghị UNESCO vinh danh tướng Giáp
18 Tháng Mười 2013(Xem: 10404)
Chúng ta biết rằng, ngoài danh và lợi, trên thế gian này, con người thường hay, tranh chấp với nhau, chỉ vì lời nói. Hai người nói chuyện, với nhau một lúc, không nhường nhịn nhau
18 Tháng Mười 2013(Xem: 9750)
Chiều nay lộng gió thu về Lá vàng tơi tả tràn trề khắp nơi. Đời người như hạt sương rơi . Lung linh một thoáng mặt trời chiếu tan .
18 Tháng Mười 2013(Xem: 17302)
Anh có thể nói dối một số người trong một lúc và lừa dối mọi người trong vài lúc. nhưng anh không thể lừ dối tất cả mọi người mãi mãi..
17 Tháng Mười 2013(Xem: 9570)
Ai cũng hiểu rằng vạn vật luôn biến chuyển. Trên đời này, không có gì có thể gọi là vĩnh viễn. Một cách rõ nét hơn thì cơ chế hiện hành cũng phải bắt buộc rơi vào qui luật lô-gic ấy.
17 Tháng Mười 2013(Xem: 10045)
Bài viết dưới đây tóm lược nhửng điều cần biết về việc mua bảo hiểm sức khoẻ qua thị trường này.
16 Tháng Mười 2013(Xem: 14341)
đừng vì tiền tài danh vọng mà dối trá với lòng mình, dối trá với dân tộc mình... Hãy lên tiếng nói lên sự thật và đừng IM LẶNG nữa.
12 Tháng Mười 2013(Xem: 10385)
Giữa lúc Washington tê liệt vì đóng cửa, mạng howstuffwork liệt kê 10 “chủ nợ” lớn nhất trong tổng số 11.560 tỷ USD nợ công của nước Mỹ.
12 Tháng Mười 2013(Xem: 15738)
Vì ác nghiệp ấy cho nên dù có tu hành thanh tịnh, y vẫn thọ quả báo thiếu thốn, xui xẻo trong nhiều đời kiếp, cho đến khi chứng quả.
09 Tháng Mười 2013(Xem: 11810)
Một số sách xuất bản ở miền Nam trước 1975 nay đã được in lại, và càng ngày càng có một nhu cầu muốn tìm hiểu và phục hồi lại nền văn học đã mai một này
09 Tháng Mười 2013(Xem: 11019)
Từ ngày được thành lập cho đến khi bị đổi tên, trong suốt gần năm mươi năm hoạt động, trường Petrus Ký đã làm tròn sứ mạng giáo dục được giao phó, đã đóng tròn vai trò một định chế xã hội đối với quốc gia
08 Tháng Mười 2013(Xem: 13032)
Quý vị có thể chỉ ăn trái cây trong 3 ngày để thanh lọc cơ thể. Chỉ ăn trái cây và uống nước trái cây trong suốt 3 ngày, và quý vị sẽ ngạc nhiên khi bạn bè cho biết quý vị nhìn thật tươi sáng!
02 Tháng Mười 2013(Xem: 11655)
Ngày 1 tháng mười tại Hoa kỳ, Thị trường Bảo hiểm Sức khỏe được thành lập do luật cải tổ y tế Obamcare sẽ bắt đầu hoạt động.
22 Tháng Chín 2013(Xem: 9666)
Nước là nước Việt, bốn ngàn năm văn hiến. Nhà là nhà Việt Nam, dân Nam, con Rồng cháu Tiên ở.
18 Tháng Chín 2013(Xem: 9743)
Để nối tiếp “Bạch Đằng Giang Sông hùng dũng của nòi giống Tiên Rồng Giống anh hùng Nam, Bắc, Trung “ Tôi chỉ biết một điều theo tâm niệm
11 Tháng Chín 2013(Xem: 9495)
sức mạnh kỳ diệu của quần chúng và của xã hội dân sự thì mới áp lực được lên tập đoàn cầm quyền buộc họ phải chuyển hoá hay đổi thay chế độ toàn trị.
28 Tháng Tám 2013(Xem: 10126)
tôi chỉ biết thức khuya, dậy sớm làm việc, một lòng hiến dâng đời tôi cho đất nước và dân tộc.
27 Tháng Tám 2013(Xem: 12258)
Chữ “giàu” hay “nghèo” chỉ diễn tả tình trạng định tính chung chung, ta không biết được giàu hay nghèo ở mức độ nào, vì vậy cần phải định lượng bằng con số để có thể so sánh dễ dàng.
25 Tháng Tám 2013(Xem: 10335)
“Trúc Nam Sơn không ghi hết tội, nước Đông Hải không rửa sạch mùi” đó là lý do mà người viết không hề có tham vọng hạch tội ác của cộng sản chỉ trong một bài viết như thế này
19 Tháng Tám 2013(Xem: 11745)
Một điều khác làm nên tầm vóc của thành quốc này đó là các công trình kiến trúc tuyệt đẹp thời k ​ỳ ​ Phục hưng. Đây là nơi hội tụ các bậc thầy về hội họa kiến trúc
19 Tháng Tám 2013(Xem: 9885)
Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông David Shear tái khẳng định tình hình nhân quyền Việt Nam vẫn không có sự cải thiện nào đáng kể như sự mong đợi của Hoa Kỳ.
12 Tháng Tám 2013(Xem: 13859)
Liên bang đã mở đường dây điện thoại trợ giúp ( helpline) và đã cải biến trang mạng HealthCare.gov đễ giải đáp các câu hỏi cơ bản về các trung tâm giao dịch bảo hiểm sức khỏe