10:10 SA
Thứ Năm
28
Tháng Ba
2024

GIÓ MÙA ĐÔNG BẮC - TRẦN NGƯƠN PHIÊU

07 Tháng Năm 201312:00 SA(Xem: 16010)
 
Gió Mùa Đông Bắc là tên cuốn “tự truyện” của Bác Sỹ Trần Nguơn Phiêu, do nhà xuất bản Hải Mã phát hành. Sách dày 506 trang, gồm 37 chương, in bìa cứng, chữ mạ vàng rất trang trọng. Bằng tất cả sự thận trọng và trân quý, chúng tôi đã đọc cuốn sách và có đôi hàng nhận xét về cuốn sách.
 
Đây là một cuốn bút ký hiếm quý. Hiếm vì cuốn sách hầu như chứa đựng được hầu hết những biến cố quan trọng của đất nước chúng ta từ sau đệ nhị thế chiến cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, đặc biệt ở Miền Nam. Tác giả từng là một thiếu niên tham gia vào những sinh hoạt tranh đấu dành độc lập cho xứ sở. Phụ trách báo Nam Thanh của tổ chức Nam Bộ Thanh Niên Kháng Chiến Đoàn. Đã trực tiếp thấy bộ mặt tàn bạo của Cộng Sản, ông bỏ vào thành tiếp tục đi học và trở thành Bác Sĩ Y Khoa Hải Quân. Biến cố nào tác giả cũng có những dữ kiện chứng minh thật cụ thể do chính mình tham dự, hay do những nhân chứng đáng tin cậy. Quý, bởi xuyên suốt 500 trang sách ta thấy được tấm lòng tha thiết của tác giả với đất nước, với thân tộc, cũng như với bằng hữu. Có người ở phe này, kẻ ở phe kia, khi là người cùng chung sống lúc hàn vi, khi là những kẻ bên kia chiến tuyến. Giữa những cảnh huống éo le, tác giả luôn thể hiện được tấm lòng chung hậu. Và bẳng một bút pháp êm đềm, rộng lượng của Miền Nam, tác giả đã cho chúng ta thấy được lòng bao dung, đơn giản của người Miền Nam cùng sự sung túc của đất nước này bao phủ lên mọi cảnh huống của thời cuộc trong hoà bình cũng như trong thời ly loạn. Qua những trang sách ta gặp những người từng là danh nhân của thời cuộc, nhưng ta cũng thấy họ từ những ngày còn trẻ thơ, đã được nuôi dưỡng trong những gia đình nề nếp. Riêng với những người cộng Sản thì lại khác. Từ trong trứng nước họ là những người khác, suy nghĩ khác, đầy xảo quyệt, dối trá và cực kỳ tàn bạo. Hệt như những người Cộng Sàn ở Bắc, họ đã thẳng tay tàn sát những người tuy cùng chiến đấu chống Pháp, nhưng khác chính kiến với họ. Ta hãy nghe Dương bạch Mai nói với Phan văn Hùm: “ ‘Anh Hùm, tôi nhớ lúc ở Côn Đảo, trong những bữa ăn như chiều hôm nay, anh thường ngồi bìa, đưa lưng hứng chịu roi vọt của cai tù để anh em được ăn yên ổn. Nhưng nay chúng tôi lãnh đạo cách mạng. Chúng tôi không chấp nhận đường lối: Đánh chung, Đi riêng của các anh’. Sau bữa chiều đó, nhóm chiến sĩ đệ tứ đã bị đưa đi, không còn hiện diện trong trại giam nữa.” ( trang 300). Từ đó người ta không ai gặp Phan văn Hùm ở đâu nữa. Những cảnh huống như thế tràn đầy trong sách. Kể từ 30 tháng 4 năm 1975, người Cộng Sản đã tạm thời cướp được đất nước chúng ta. Nhưng đất nước sẽ đi về đâu. Ta có thể lấy lời của Giáo Sư Phạm Thiều, một người đã bỏ cả cuộc đời đi theo Cộng Sản, khi về già từ Bắc về lại Miền Nam, ông nhận xét về người Cộng Sản như sau:
“Dốt mà lãnh đạo nên làm Dại.
Dại mà muốn thành tích nên báo cáo Dối.
Dốt, Dại, Dối, đó là ba điều làm cho các nước Xã Hội Chủ Nghĩa sụp đổ, làm cho nước ta đi từ sai lầm này đến sai lầm khác”. ( trang 37). 
Bỏ ra ngoài vấn đề của một thời oan trái, cuốn sách còn lấp lánh những góc cạnh rất đẹp của đời sống. Nói về những kỷ niệm khi còn bé được mẹ dội nước tắm cho, ông viết : “Nắng chiều chiếu qua những giọt nước còn đọng trên mi, mặt mẹ Triệu cúi gần mặt Triệu, nên khi mở mắt Triệu thấy hình ảnh mẹ lung linh tuyệt đẹp…” Trong văn chương Việt Nam, có lẽ đây là lần đầu tiên hình ảnh người Mẹ được ghi lại thân thương, đơn giản mà đẹp đẽ như thế, khiến “Tám chục năm về sau, mỗi lần tưởng nhớ đến mẹ, Triệu vẫn còn giữ mãi nét mặt của mẹ qua ánh nước long lánh của buổi chiều ngày đó.” (trang 23).
Và suốt chiều dài của đời sống, từ một ngưởi học trò sống ở vùng quê, mồ côi mẹ rất sớm, lớn lên ở Sài Gòn dưới sự trông nom của ông bà ngoại, rồi đi du học tại Pháp để trở thành vị Bác Sĩ Y Khoa của Hải Quân Việt Nam. Với biết bao thay đổi, nhưng dưới nhận xét tinh tế của ông, hầu như không có cảnh trí nào đặc biệt mà ông không ghi nhận. Sống ở Bordeaux, Pháp trong 6 năm trời, cái nôi của rượu vang, ta hãy nghe ông nói về cách thưởng thức rượu vang của xứ này : “… Khách sành điệu cần nhìn bề mặt rượu trong ly. Ven bờ rượu thấy trong sáng và tròn trịa là rượu còn non ngày tháng. Ven bờ rượu màu hổ phách là rượu đúng tuổi uống. Nếu màu ven rượu chuyển sang màu đỏ như gạch thì quả đã quá già … để biết tuổi rượu là nên nghiêng ly cho rượu sắp trào rổi nhanh nhẹn dựng ly trở lại. Nếu chân rượu rút từ từ xuống ven bờ là độ cồn đã cao, không phải rượu non tuổi. Theo chủ quán tiếng nhà nghề gọi là ‘chân rượu’ ( jambe).” Những ghi nhận chi ly như thế nhiều lắm. Một ghi nhận khác về Hải Quân, khi ông nhắc đến khiến tôi giật mình. Đó là trên chuyến hải hành vượt Thái Bình Dương của chiến hạm Nhật Tảo, HQ 10, kỳ hiệu M được kéo lên trên kỳ đài khi có sự hiện diện của vị y sỹ trên chiến hạm. Điều ấy ai là những sĩ quan Hải Quân cũng biết, cũng được học, nhưng hầu như không phải xử dụng bao giờ, nên không nhớ. Và cũng trên hải trình lịch sử từ Mỹ vượt Thái Bình Dương về Việt Nam, tôi cũng đã trải qua. Khi đã ra khỏi eo biển của Phi Luật Tân, radio trên tàu HQ 504 đã bắt được làn sóng thân thương của đài Sài Gòn, quê nhà đã gần, bỗng có một nhân viên thần trí bất thường vì những ngày dài hải hành trên đại dương mông mênh, bốn phương không bờ bến, nên anh ta phát khiếp, bỗng lấy dao cứa nát bắp tay mình, máu phun như tưới. Anh y tá cuốn chặt cánh tay người bị thương để cầm máu, rồi Hạm Trưởng phải liên lạc gấp với Sài Gòn, xin trực thăng bay ra, đáp xuống sân chiến hạm bốc anh ta về bịnh viện Cộng Hoà. Khi ấy, nếu gặp chiến hạm có kéo cờ M (Medecin), thì mọi việc đã được giải quyết gọn gàng. Chính ghi nhận này đã chứng tỏ rằng Bác Sĩ Trần Nguơn Phiêu là một người rất chi tiết, ông không bỏ sót một sự kiện gì đáng chú ý trong cuộc sống. Song cũng chính suy nghĩ này khiến tôi tìm chưa ra ý nghiã tên sách: Gió Mùa Đông Bắc. Trong 500 trang sách, Mùa Gió Đông Bắc chỉ được ông nhắc đến hai lần. Lần một khi ông tham dự đón đồng bào Miền Trung đi định cư ở Miền Nam. Ông đã chứng kiến cảnh sóng gió như thế nào khi Gió Mùa Đông Bắc thổi, khiến mọi người trên tàu nôn mửa, có mấy ngưởi đàn bà đẻ non, được Bác Sĩ Phiêu săn sóc, mẹ tròn con vuông. Và chót hết ở cuối sách ông viết sau khi đã thắp hương lên bàn thờ gia tiên và bàn thờ Phật, cung kính khấn lời giã từ, chính lúc ấy đài phát thanh loan tin tức khí tượng và ông đã ghi lại: “Tin tức cho tàu chạy ven biển: Hôm nay gió mùa Đông Bắc thổi mạnh trên biển Nam Hải. Trời không nhiều mây nhưng sẽ có mưa rào rải rắc. Biển động mạnh.”
Cuốn sách đã được đóng lại với hàng chữ này, khiến lòng tôi ngẩn ngơ.
Phải chăng cuộc đời ông đã bị Gió Muà Đông Bắc mời gọi. Ngọn gió làm điêu đứng những người đi biển, những người lính mà ông, tuy không phải dày dạn với gió mưa, nhưng ông đã suốt đời gắn bó với họ qua bao nhiêu nỗi vui buồn. Khi vận nước đã khác, như đa số những người lăn lộn với thời cuộc, tất cả đã phải bỏ nước hướng ra biển khơi, không biết ngày mai ra sao. Giữa lúc ấy, cuối tháng 4 năm 1975, là cuối mùa Đông Bắc, “biển động mạnh.”
Phải chăng đó là kỷ niệm, là nỗi niềm của vị Hải Quân Y Sỹ Đại Tá Trần Nguơn Phiêu, nguyên Trưởng Khối Quân Y Hải Quân, nguyên Cục Phó Cục Quân Y, nguyên Tổng Trưởng Xã Hội của chính phủ VNCH?
Nghĩ thế, là một người đi biển, người viết xin trân trọng cám ơn Bác Sỹ và luôn nghĩ rằng, ở ngoài tuổi 80, ông đã có một món quà hiếm quý để lại cho mai sau. Một tấm gương trong sáng của người trí thức Miền Nam.

Phan Lạc Tiếp

GIÓ MÙA ĐÔNG BẮC

 TRẦN NGUƠN PHIÊU

LỜI NÓI ĐẦU
blankĐây chỉ là tiểu thuyết, loại tự truyện, về hành trình của một thanh niên bắt đầu trưởng thành vào lúc đất nước chuyển mình tranh đấu thoát ách thực dân Pháp ngay sau Đệ Nhị Thế Chiến. Từ những giai đoạn lúc ban đầu, khi toàn dân một lòng đứng lên quyết tâm chống trả mưu toan trở lại của Đế Quốc Pháp đến những biến thiên hơn ba mươi năm kế tiếp, đây là một đoạn lịch sử cận đại, bối cảnh của cốt truyện. Được cơ hội lớn lên vào khoảng đầu Thế chiến Thứ Hai, người viết muốn ghi lại những gì mình đã chứng kiến về các đổi thay trọng đại ở miền Nam. Đất nước đã tranh đấu vuợt thoát từ chế độ thuộc địa trở lại vị trí độc lập, nhưng đã phải hứng chịu bao nhiêu biến thiên, đổ nát.

Truyện được hư cấu căn cứ trên những sự kiện có thật. Nếu trong sách có những trùng hợp về tên tuổi, địa danh, xin người đọc tha thứ, coi đó chỉ là chuyện ngẫu nhiên vô tình. Người viết muốn ghi lại cho thế hệ trẻ những sự việc đã đưa đất nước qua những biến đổi đau thương mà những người có trách nhiệm lèo lái quốc gia đã có thể tránh được nếu mỗi khi phải chọn lấy một quyết định chánh trị, họ thật sự luôn luôn đặt quyền lợi và hạnh phúc dân chúng làm mục tiêu tối hậu. Dân chúng Việt Nam đã hứng chịu bao nhiêu mất mát, khổ cực, điêu linh do một số người nhân danh đảng phái hô hào sẽ đưa toàn dân đến một xã hội tự do, bình đẳng trong một thế giới đại đồng. Việc đáng trách là trong khi đó họ cũng đã có cơ hội chứng kiến các thảm bại, khổ cực của dân chúng của các nước đang thực thi chế độ mà họ lại đang mong áp đặt lên dân chúng Việt Nam!
Người viết muốn ghi lại được phần nào những gì mình đã trải qua trong một thời đất nước chuyển mình.
T.N.P.
Chương 1
Bên bờ Rạch Cát

Buổi sáng tinh sương ở Biên Hòa vào khoảng tháng Tám bao giờ cũng lạnh so với các tỉnh miền đồng bằng sông Cửu Long. Đây là nơi chẳng những ở về phương Bắc lại còn là chốn khởi đầu của núi rừng miền Nam.
Triệu cùng ông ngoại ra ga Hiệp Hòa để đón chuyến xe lửa sớm buổi sáng đi Sài Gòn. Đây là một nhà ga rất nhỏ, thường được gọi là ga tạm, giữa hai ga lớn là ga Chợ Đồn và ga chánh Biên Hòa. Xe lửa Sài Gòn - Biên Hòa chỉ ghé lại ga này vào chuyến sáng sớm và chuyến bảy giờ tối để công chức, công nhân hoặc các bạn hàng có thể đi làm việc hay buôn bán ở Sài Gòn.
Trời còn sớm, sương vẫn còn trải mờ mờ trên mặt đất. Các công, tư chức làm ở các cơ quan chánh phủ hay các hãng xưởng kể như đều biết nhau vì thường cùng đáp xe hằng ngày nên đã chụm nhau từng nhóm nhỏ cười đùa, bàn chuyện thời sự ... Phần đông đều mặc âu phục, cổ thắt cà vạt vì là cách ăn mặc hầu như bắt buộc của các thầy thông phán trước Đệ nhị Thế chiến.
Trong giới bạn hàng, các phụ nữ chuyên mua bán cá thì rất thong dong vào chuyến sáng vì gánh thúng không, chưa có cá, nên họ cười đùa rộn rã. Chỉ có chuyến chiều về thì mới thấy họ mệt lả vì các gánh nặng trĩu, sau khi bổ được cá ở chợ Cầu Ông Lãnh về bán ở các chợ Biên Hòa.
Từ ngày Triệu về Biên Hòa vì ông ngoại đã về hưu, dọn nhà từ Vĩnh Long về miếng vườn nhỏ ở ấp Phước Lư, bên dòng Rạch Cát, một nhánh của sông Đồng Nai, thì mỗi lần ông cháu có việc đi Sài Gòn, đều chọn khởi hành từ ga tạm Hiệp Hòa cho tiện vì gần nhà.
Từ vườn nhà ra ga không bao xa, nhưng mỗi lần đi Sài Gòn, ngoại thường thức rất sớm, khi tiếng chuông công phu khuya chùa Đại Giác ở Cù lao Phố gióng lên và ngân rền trên sóng nước Đồng Nai. Lúc còn ở Vĩnh Long, một tỉnh nhỏ nhưng ở ngay trong thành phố, Triệu thường bị đánh thức khi thành phố bắt đầu rộn rịp xe cộ buổi sáng. Về Phước Lư, nửa tỉnh nửa quê, chuông công phu khuya của chùa Đại Giác là đồng hồ báo thức mỗi sáng, nhắc Triệu thức dậy, chong đèn dầu ôn bài để đến trường Tỉnh. Mỗi lần thức dậy, đánh que diêm đốt đèn, mùi diêm sinh tỏa trong không khí buổi sáng tinh sương có một hương vị là lạ mà Triệu không bao giờ quên kể như suốt cuộc đời sau này.
Hôm nay là ngày đặc biệt vì ngoại đã toan tính từ lâu, sau khi Triệu được trúng tuyển và có học bổng nội trú ở Trường Trung học Petrus Trương Vĩnh Ký. Ngoại rất hãnh diện thấy cháu mình thi đậu cao, được tiếp tục học sau khi đậu Sơ học ở trường tỉnh. Triệu mồ côi mẹ lúc lên năm và ngoại đã đem Triệu và em gái Triệu về nuôi vì Ba của Triệu luôn đi làm việc xa ở Cam Bốt.
Ngoại biết cháu có học bổng, ở nội trú nhưng ngoại muốn đưa Triệu qua Sài Gòn để giới thiệu với bà con, bạn bè xa gần để gởi gắm Triệu trong những ngày sống xa ngoại.
Ông ngoại của Triệu ngày xưa vốn quê ở Cù lao Phố, một địa danh đặc biệt, đã nổi tiếng một thời khi Trần Thượng Xuyên, một dũng tướng nhà Minh, đã bỏ xứ lưu vong vào lúc Trung Hoa bị nhà Mãn Thanh chiếm. Chúa Nguyễn đã chấp nhận cho các danh tướng nhà Minh này vào lập nghiệp và khai khẩn đất miền Nam. Dương Ngạn Địch chọn vùng Định Tường (Mỹ Tho) để lập nghiệp. Trần Thượng Xuyên chọn đất Đông Phố và Nông Nại (Cù lao Phố) làm nơi dung thân. Nếu Mạc Cửu là người đã được biết tiếng nhiều nhất vì đã có công gầy dựng miền Hà-Tiên thành một miền trù phú, vang tiếng một thời về cả thương nghiệp lẫn văn hóa, thì vùng Sông Phố cũng có một thời rất nổi danh, trước cả Chợ Lớn, Sài Gòn.
Cù Lao Phố có vị trí biệt lập, dễ cho việc phát triển và cai trị. Quốc lộ 1 ngày trước và thiết lộ Sài Gòn-Hà Nội xuyên qua đây bằng hai chiếc cầu lớn: cầu Gành và cầu Rạch Cát. Giới giang hồ, trộm cắp ngày trước đều tránh xa, không dám léo hánh đến cù lao này. Dân chúng đều biết mặt nhau và rất đoàn kết trong mọi việc.
Đang đêm khi nghe có báo động trộm cướp là cả làng thắp đuốc sáng, canh giữ hai cầu và suốt mặt sông. Khi bắt được tội phạm, dân đem ra xét xử tại chỗ, xong cột đá vào kẻ cướp và quẳng xuống cầu Gành, không cần báo cáo cho chánh quyền nào khác!
Nhờ óc kinh doanh người Trung Hoa nên kinh tế vùng Sông Phố phát triển rất mạnh. Ngoài sự trợ giúp tài chánh cho chúa Nguyễn khi còn lập nghiệp trong Nam, các danh tướng Tàu, đặc biệt Trần Đại Định là con của Trần Thượng Xuyên, còn trợ giúp chúa Nguyễn về binh bị. Cũng vì thế nên khi Nguyễn Huệ vào Nam đánh thắng Nguyễn Ánh, ông đã căm thù sự trợ giúp của người Trung Hoa nên đã tàn sát dân chúng vùng Cù Lao Phố, thây trôi đầy sông, sau bao nhiêu ngày nước mới trong lại được.
Ngoại ngày xưa cũng là một học sinh xuất sắc, được tuyển chọn theo học trường Bổn Quốc tức Trung học Chasseloup Laubat sau này. Ông thường vẫn nhắc chuyện ngày trước, sau khi thi đậu được cấp học bổng, quần áo, giầy vớ đều được trường cấp. Đồng phục màu xanh dương đậm, nút đồng vàng, cũng do trường cho thợ may cắt cấp cho học sinh. Mỗi bận ông nghỉ hè về làng Hiệp Hòa, dân trong làng rất hãnh diện có một học sinh vận đồng phục của trường. Vì thuộc gia đình nghèo nên đang học nửa chừng thì tình nguyện sang học và làm việc với sở Địa Chánh Nam Kỳ. Vào thời đó, Pháp vừa mới ổn định được phần nào miền Nam nên thấy có nhu cầu phải thiết lập họa đồ chính xác cho toàn miền. Các chuyên viên Pháp thấy nhu cầu cần gấp các trắc lượng viên nên đã dành nhiều quyền lợi, lương bổng cho các thanh niên được chọn để huấn luyện về ngành này. Sau khi tốt nghiệp, ông ngoại Triệu đã được gởi đi hầu hết các tỉnh miền Nam để thiết lập địa bộ các làng xã. Nhờ đó, tuy tuổi còn nhỏ nhưng Triệu đã biết tên rất nhiều địa danh xa xôi miền Nam vì được nghe ngoại nhắc đến trong các câu chuyện hằng ngày.
Hôm nay dắt Triệu cùng qua Sài Gòn nhưng như thường lệ, hai ông cháu chọn xuống ga Phú Nhuận, thay vì ra thẳng ga Chợ Bến Thành, vì ngoại muốn luôn dịp ghé thăm các cháu nội cư ngụ ở vùng đó. Mỗi lần chuyến xe buổi sáng đến ga Thủ Đức thì khung cảnh trên các toa náo nhiệt hẳn lên, vì các bạn hàng bán các thức ăn cho các chợ Sài Gòn thường lên tàu ở ga này.
Thủ Đức vốn nổi tiếng từ xưa về sản xuất nem chua và các thức ăn chơi khác như thịt nướng, bún, bánh hỏi. Dân chúng từ Sài Gòn thường đáp xe lên đây vào các buổi chiều để nhàn du và thưởng thức các món đặc biệt của địa phương nầy. Bạn hàng Thủ Đức, ban ngày thường có lệ, đáp chuyến tàu sớm này, để bán các đặc sản của họ ở các chợ Sài Gòn. Sau khi lên xe suông sẽ, họ thong dong bày dao thớt, tiếp tục chuẩn bị sửa soạn tiếp các món hàng sắp đem ra chợ. Các tay buôn thường là những người lão luyện lâu năm trong nghề. Thấy họ cuộn từng bó rau lớn và xắt mỏng thoăn thắt mà phải phục tài. Những người đáp xe chưa ăn sáng thường có cái lệ hay gọi các thức ăn vào khoảng này, trước khi xe đến ga chợ Bến Thành.
Phú Nhuận vào thời khoảng 1939 là một vùng rất thưa dân cư. Nhà cửa hai bên đường Chi Lăng vào thuở ấy không có các phố xá như hiện nay mà phần nhiều là những mảnh vườn nho nhỏ. Nhà phần đông cất kiểu nhà sàn thấp, có lẽ vì đất đai còn rất ẩm. Nước dùng toàn là nước kéo từ các giếng, chưa có nước máy như về sau này. Cậu của Triệu là con trai trưởng của ngoại, tốt nghiệp Trường Sư Phạm, gần Sở Thú và được bổ nhiệm hành nghề ở Nha Học Chánh Nam Kỳ ở đường Lê Thánh Tôn. Thay vì chọn chỗ ở gần nơi làm việc, cậu Hai của Triệu lại về Phú Nhuận vì thích phong cảnh vườn. Phú Nhuận lại là trạm chót của xe buýt từ Sài Gòn vô, lại có trạm gần Nha Học Chánh nên sự di chuyển hằng ngày rất tiện lợi.
Nơi trạm xe buýt khởi hành từ Phú Nhuận có một quán ăn người Trung Hoa rất nổi tiếng về món thịt bò kho. Vào thời trước, chỉ có Sài Gòn là nơi hằng ngày có bán thịt bò nhiều hơn cả, vì phần đông người Pháp và Âu đều tập trung thủ đô miền Nam. Ở các chợ tỉnh nhỏ, các thớt thịt bò rất hiếm vì ít người tiêu thụ, nên khó tìm ra loại thịt để nấu món đặc biệt này. Gân, sụn nấu sao cho vừa đủ chín, không còn quá cứng nhưng cũng không quá nhão, để thực khách khi ăn, vẫn còn thưởng thức được cái thú vị đang cắn vào miếng gân, miếng sụn. Nghệ thuật là như thế, nên quán chỉ nấu vừa đủ bán cho khách vào buổi sáng. Nếu bán còn dư, phải hâm lại thì món ăn đã biến chất, không còn ngon như mới nấu lần đầu. Triệu đã được ngoại giải thích và biết thưởng thức hương vị món bò kho từ thuở đó.
Riêng về phần Triệu thì mỗi lần ghé Phú Nhuận như vậy, Triệu rất thích thú vì nhà cậu Hai có rất nhiều sách, nhất là sách cho giới trẻ. Triệu đã bắt đầu đọc được sách tiếng Pháp nên có thể tha hồ chọn và mượn đem về Biên Hòa đọc. Sách tiếng Việt cho thanh thiếu niên vào thời trước thường rất ít. Chỉ có loại Sách Hồng, phỏng theo loại Livres Roses của Pháp. Phụng, con trưởng của Cậu và là chị họ lớn hơn Triệu đã biết được sự mê sách của Triệu nên mỗi lần có dịp về thăm ngoại ở Biên Hòa, không bao giờ quên soạn đem về một gói lớn sách cho thằng Triệu nó đọc. Chị không may đã mất sớm vì bị bịnh sốt thương hàn. Sau khi cậu Hai của Triệu mất thêm một đứa con trai khác cũng bị nhiễm bịnh ấy, nguyên do vì Phú Nhuận vào thời trước chỉ dùng nước giếng, không được khử trùng như nước máy, nên sau cùng phải dọn nhà ra vùng Tân Định. Ngày nay đã trên tám mươi tuổi, hồi tưởng lại những ngày thơ ấu, Triệu vẫn nhớ đến nỗi vui mừng mỗi khi đạp xe đạp ra ga nhỏ Hiệp Hòa để đón người chị họ từ Sài Gòn về nghỉ hè, lúc nào cũng lo đem một bọc sách cho thằng em nhà quê !
Từ Phú Nhuận, hai ông cháu Triệu đáp xe buýt ra vùng Chợ Cũ lựa những món cần mua vì ở Chợ Cũ giá rẻ hơn ở chợ Bến Thành. Triệu cùng ngoại đi trở về Đại lộ Charner (đường Nguyễn Huệ) để vào cửa hàng Charner là nơi chuyên bán những vật dụng nhập cảng từ Pháp. Trong bản kê khai vật dụng cá nhân mà Trường Trung học Petrus Ký bắt buộc học sinh nội trú phải sắm, có việc phải gắn số đính bài vào áo quần để khỏi nhầm lẫn của nhau. Thuở đó, chỉ có cửa hàng Charner mới nhập cảng loại số thêu này mà thôi. Đó là những cuộn băng vải, có thêu số, chỉ cần được cắt ra, kết vào áo quần, khăn, mền để biết sở hữu chủ là ai. Triệu đã được cấp cho số 336, một con số định mạng, vì không hiểu vì sao, trong thời gian trưởng thành, mỗi khi Triệu cần được cấp một số hiệu thì y như rằng, thế nào trong số được cấp, bao giờ cũng có con số 3!
Việc sắm vật dụng để vào học nội trú là cả một vấn đề cho gia đình bên ngoại của Triệu, vì Ông ngoại nay đã về hưu. Muốn vào được nội trú học sinh phải có đủ các món đã được ghi trong một bản kê khai dài. Triệu có cái may là được người cô thứ Tư của Triệu đang có một tiệm may ở Long Xuyên hứa sẽ cho những bộ áo quần phải sắm!
Trưa hôm ấy ngoại đưa Triệu đến thăm giáo sư Cẩm là người bà con xa trong họ, đang là giáo sư Toán của trường Petrus Ký. Ông tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội, người gốc Thủ Dầu Một, nét mặt rất cương nghị. Khi Triệu đến, gặp lúc ông đang loay hoay với máy vô tuyến điện để tìm bắt tin tức các đài ngoại quốc. Ở Việt Nam thời bấy giờ, các nhà buôn Pháp mới bắt đầu nhập cảng máy vô tuyến truyền thanh nên người có máy còn rất hiếm. Đài phát thanh “Radio Sài Gòn” lúc đó chưa có, nên nhà buôn Boy Landry tự đảm nhiệm luôn chương trình phát tuyến cho dân chúng. Chương trình Pháp ngữ thường tiếp vận các đài bên Pháp nên khá đầy đủ. Chương trình Việt ngữ lại rất nghèo nàn. Chỉ có phần văn nghệ Việt thì sôi động vì đài khuyến khích dân chúng tham dự trình diễn văn nghệ với việc tặng quà của các hãng thuốc lá Sài Gòn. Chương trình thực hiện như Radio “crochet” bên Pháp. Người trình diễn, nếu kém tài nghệ hoặc bị đối phương cố tình phá, sẽ bị hội trường phản đối, đành phải trao trả micro, rời sân khấu. Dân chúng gọi việc này là bị móc xuống. Các buổi phát thanh Radio móc là những buổi vui nhộn và được người Việt thích nhất.
Giáo sư Cẩm vừa tìm đài vừa cằn nhằn vì nhà ông ở đường Dixmude, gần đại lộ Galiénie (Trần Hưng Đạo thời VNCH) là nơi có đường xe điện Sài Gòn - Chợ Lớn. Mỗi lần xe điện chạy ngang là làn sóng bị phá rối không nghe được. Trên bàn ông ngổn ngang sách Pháp. Triệu đọc thoáng qua thấy có nhiều cuốn nói về Einstein là một bác học Triệu có nghe danh nhưng cũng có sách Việt như quyển Tố TâmTuyết Hồng Lệ Sử của tác giả Song An Hoàng Ngọc Phách. Ông khen Triệu được trúng tuyển vào trường nhưng cho biết phải tiếp tục cố gắng nhiều hơn, vì trường là nơi tụ họp của học sinh giỏi tứ phương miền Nam chớ không phải một xó xỉnh như Biên Hòa. Thực dân Pháp chỉ mở có hai trường Trung học công ở Sài Gòn là Petrus Ký cho nam và Nữ học đường cho nữ mà thôi! Ông bảo Triệu lên lầu nhà chơi với con trai ông, để ngoại cùng ông nghe đài.
Sau buổi chiều mua sắm thêm các vật dụng nhập học nội trú, hai ông cháu Triệu lấy vé xe lửa ở ga Sài Gòn trở lại Biên Hòa. Như thường lệ, hai ông cháu đã đến sớm để có thì giờ ghé tiệm bán sách cũ của một người Trung Hoa. Ngang ga xe lửa Sài Gòn thời trước, có hai tiệm đặc biệt trước ga: Một là quán cơm chay và hai là tiệm sách cũ. Người chủ tiệm sách cũ này có thói đặc biệt là khi mua hoặc bán sách ông đều định giá theo cân kí lô! Sách lựa xong, đưa cho ông xem để tính tiền! Sách cân nặng thường được ông định giá cao. Các sách khác dẫu là sách có giá trị nhưng không nặng kí, ông vẫn bán cho giá rẻ mạt. Triệu có cơ hội tha được nhiều sách về nhà nằm đọc, học được nhiều điều hay qua sách vở, một phần lớn đều do mua được sách quý với giá rẻ ở tiệm sách đặc biệt của ông Tàu nầy!
Trên xe về Biên Hòa, Triệu thưa với ngoại:
-Nhà ông Cẩm có tiểu thuyết Việt, nghe đồn là hay nhưng làm sao dám mượn.
Ngoại đáp:
-Tiểu thuyết đó là của các sinh viên, mang từ Bắc về. Tao cũng có hỏi qua ông Cẩm nhưng ổng nói đó là sách kỷ niệm lúc đi học. Toàn là sách ủy mị, lãng mạn. Ổng với tao nghe tin tức ngoại quốc. Chiến tranh thế giới có thể sẽ xảy đến. Nhựt Bổn thế nào cũng sẽ đụng độ với Anh, Mỹ, Pháp. Xứ sở mình không biết tương lai sẽ ra sao!
Ngoại ngồi tư lự trên xe suốt buổi. Triệu không dám bàn gì thêm cho đến khi xe ngừng ga nhỏ Hiệp Hòa. Các chị mua cá từ chợ Cầu Ông Lãnh lật đật xuống xe, nặng nhọc lầm lũi gánh cá về nhà để bán chợ sáng, không còn đùa cợt vui vẻ như buổi sáng khi quảy gánh còn trống không qua Sài Gòn bổ hàng.
Trần Ngươn Phiêu
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
11 Tháng Giêng 2012(Xem: 17700)
Đến đây, ta có thể đặt ra câu hỏi: “Tại sao làng Minh Hương đầu tiên không được thành lập tại Cù Lao Phố (Biên Hòa), một nơi cưc kỳ phồn hoa đô hội, hay vùng Mỹ Tho là nơi dân Minh Hương đang canh tác, và phát triển nông- công-ngư nghiệp ?”.
10 Tháng Giêng 2012(Xem: 14274)
Ai ơi có đến Nhà Bè _ Nhớ ơn nước ngọt, bè tre Thủ Huồng. Nhà bè nước chảy chia hai _ Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về
28 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 13541)
Trong không khí êm ả buổi sáng, tiếng chuông chùa cổ chầm chậm ngân dài trên sóng nước dòng Sông Phố, như để thức tỉnh lòng người. Đến buổi tối, tiếng động vang rền của đoàn xe lửa cuối cùng trong ngày, chuyến tốc hành xuyên Việt, khởi hành từ Sài Gòn khi vượt qua hai cầu sắt Cù Lao Phố vào lúc 9 giờ đêm là một báo hiệu để nhà nhà tắt đèn đi nghỉ.
04 Tháng Mười 2011(Xem: 16593)
Không một người Việt Nam nào sợ thay đổi. Cái đáng sợ là Cù Lao Phố hay những địa danh lịch sử nổi tiếng của đất nước này bị thay đổi theo kiểu áp đặt quan điểm lịch sử từ những thế lực vong ơn.
25 Tháng Chín 2011(Xem: 17572)
“Minh Tân” tên một ngôi trường không còn nữa theo giòng thời gian, nhưng với cựu học sinh, phụ huynh nhất là đồng hương Biên Hoà ,luôn nhớ những sự đóng góp trong thời hưng thịnh của tỉnh nhà. Cây lúa được tốt,được tươi là do công lao người chăm bón, muốn ăn trái ngọt phải có cây lành, chắc hẵn chúng ta sẽ không thể quên cây lành cũng như công lao ngườì chăm bón