4:38 SA
Thứ Năm
28
Tháng Ba
2024

Sổ Tay Ký Thiệt : Tin Buồn Tin Vui

18 Tháng Sáu 20209:28 CH(Xem: 7073)
stkt.jpg
 Sổ Tay  Thiệt kỳ 408
 
Tin buồn, tin vui
 
Vừa mới đây có tin cựu Trung tá Bùi Quyền, nguyên Lữ Đoàn Phó Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù QLVNCH, đã qua đời ngày 30 tháng 5, 2020, tại Orange County, Nam California. 
Một tin buồn được đăng trên vài tờ báo Việt ngữ ở địa phương vào một ngày cuối tuần có lẽ cũng đã được đón nhận một cách thờ ơ dưới những con mắt của đồng hương vô can như bao nhiêu “Cáo Phó”, “Phân Ưu” khác.
 Nhưng, khi đọc bài “Một số điều nhiều người chưa biết về Trung Tá Bùi Quyền” của ông Trần Huy Bích, “người vô can” mới được tác giả cho biết ông Bùi Quyền đã là “một trong những sĩ quan lỗi lạc của QLVNCH. Tốt nghiệp Thủ khoa khóa 16 trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt cuối tháng 12 năm 1962, ông đã chọn binh chủng Nhảy Dù khi ra trường. Từ đó cho tới khi miền Nam sụp đổ cuối tháng 4-1975, ông được coi là “một quân nhân quả cảm, luôn có mặt ở tuyến đầu trong những trận chiến ác liệt nhất.” Mới ở cấp Đại Úy đã được Bảo Quốc Huân Chương. Còn Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu, với sao vàng, sao bạc … cùng nhiều loại huân chương khác thì … đếm không xuể. 
Ông có mặt trong nhiều trận chiến ác liệt: Dak To – Tân Cảnh, giải vây An Lộc, lấy lại Quảng Trị, bảo vệ đèo Khánh Dương, và từ 4 tháng 4 năm 1975, bảo vệ Sàigòn. Ông không bỏ binh sĩ, chiến đấu tới phút chót, và sau lệnh phải buông súng ngày 30-4-1975,  bị những người ở “bên thắng cuộc” nhốt vào “trại cải tạo” 13 năm với nhiều tháng biệt giam. Khi  sang Mỹ năm 1991, ông được vị Tổng thống thứ 41 của Hoa Kỳ (Tổng thống George H.W. Bush), và Học Viện Không Lực của Hoa Kỳ (U.S. Air Force Academy ở Colorado Springs, tiểu bang Colorado) đón tiếp một cách trang trọng.
Ông Trần Huy Bích cho biết ông Bùi Quyền “xuất thân từ một gia đình khoa bảng và văn học có danh tiếng từ nhiều đời. Từ nửa sau của thế kỷ 19, họ Bùi làng Châu Cầu của gia đình anh cùng họ Dương làng Vân Đình của các cụ Dương Khuê, Dương Lâm đã nổi tiếng với nhiều nhân vật xuất sắc.” 
Ông Trần Huy Bích viết:
“Để thuật lại một số chuyện mang tính cách bạn hữu, từ đây trở đi xin được theo cách nói của bè bạn, dùng tiếng “anh” mỗi khi nhắc đến ông. 
Năm Ất Sửu 1865 đời vua Tự Đức, ở làng Châu Cầu (nay thuộc tỉnh Hà Nam) có hai cụ Bùi Dị và Bùi Quế (anh em họ) cùng đậu Phó bảng. Khi vinh quy, được mừng đôi câu đối như sau: 
Bùi tộc đồng khoa song hội bảng
Châu Cầu nhất nhật lưỡng vinh quy.
(Họ Bùi đậu cùng khoa, hai người trên bảng thi hội
Làng Châu Cầu trong một ngày hai đám rước vinh quy).
 Cụ Bùi Dị, thường được sử chép bằng tên tự Bùi Ân Niên, nổi tiếng văn thơ hay, làm quan trải các chức Hàn lâm, Nội các, Chánh sứ sang Trung Hoa, Thượng thư bộ Lễ, Thượng thư bộ Lại, Hiệp biện Đại học sĩ, Phụ chánh đại thần, Phó Tổng tài Quốc sử quán kiêm quản Quốc tử giám. Sau khi Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ hai khiến Tổng đốc Hoàng Diệu phải thắt cổ tự tử năm Nhâm Ngọ 1882, cụ giữ chức Kinh lược sứ, cùng Tiết chế Quân vụ Hoàng Kế Viêm điều động binh sĩ chống lại quân Pháp. 
Cụ Bùi Quế làm quan trải các chức Tham tri bộ Hộ, Tuần phủ Quảng Nam, Tuần phủ Thuận Khánh (Bình Thuận & Khánh Hòa). Quốc Triều Khoa Bảng Lục của Cao Xuân Dục cho biết cụ “cáo bệnh về hưu” và ghi lời nhận xét rằng “ông điềm đạm, tự lấy thế làm vui.” Theo tài liệu trong gia đình, cụ cáo quan lui về khi thấy đất nước đã mất chủ quyền, giống trường hợp hai người bạn thân là Nguyễn Khuyến và Dương Khuê, “Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là.” Nguyễn Khuyến, Bùi Quế, và Dương Khuê là ba người “bạn đồng khoa”: cùng đậu Cử nhân năm Giáp Tý 1864  tại trường Hà Nội. Khoa ấy Nguyễn Khuyến đậu đầu (Giải nguyên). Thêm vào đó, các vị hợp tâm tính và có nhiều kỷ niệm chung với nhau. 
Cụ Bùi Quế sinh ra cụ Bùi Thức, tuy đậu Tiến sĩ năm 1898 đời vua Thành Thái nhưng không ra làm quan, chỉ ở nhà dạy học và viết sách.
Cụ Bùi Thức sinh ra cụ Bùi Kỷ (đậu Phó bảng năm 1910 đời vua Duy Tân), hai cụ Bùi Khải và Bùi Lương (cùng đậu Cử nhân). Cụ bà Trần Trọng Kim và cụ Bùi Nam, thân phụ của anh Bùi Quyền, là em của các vị ấy. Cụ Bùi Nam còn một người em trai là Bùi Nhung, làm Giám đốc Đài Phát thanh Hà Nội, sau dời xuống Hải Phòng cho tới 1955. Người vợ đầu tiên của ông là bà Thụy An, một nhà văn nữ nổi danh, ở lại miền Bắc, sau bị nhà cầm quyền CS xử tới 15 năm tù vì có liên quan với nhóm Nhân Văn – Giai Phẩm. Nói cách khác, anh Quyền là cháu, gọi các cụ Bùi Kỷ, Bùi Khải, Bùi Lương là bác ruột, gọi học giả Trần Trọng Kim là bác rể, gọi ông bà Bùi Nhung – Thụy An là chú thím. Anh là cháu nội của Tiến sĩ Bùi Thức, và chắt nội của Phó bảng Bùi Quế, một trong những người bạn thân nhất của Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến và Tiến sĩ Vân Đình Dương Khuê.
 Và, ông Trần Huy Bích kết luận bài viết như sau:
“Chúng ta đúng khi quan niệm anh Quyền là một sĩ quan Nhảy Dù can trường và anh hùng, một nhà chỉ huy quân sự xuất sắc. Do cơ duyên, và chắc cũng do “gene” từ gia đình, tôi thấy thêm ở anh một trí thức có phong thái, cốt cách, với kiến thức vững chắc về lịch sử Việt Nam, lịch sử thế giới, yêu văn học Việt Nam, cổ văn học Trung Hoa. Trong một bài báo loan tin anh tới Mỹ, đăng trên New York Times số ra ngày 30 tháng 5, 1991, ký giả Dick Johnson đã cho biết anh nói thạo 5 ngôn ngữ. Điều ấy đúng. Bên cạnh tiếng mẹ đẻ, anh nói thạo tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Thái, tiếng Hoa. Anh cũng đọc và viết được chữ Hán, chữ Thái. Trong việc viết biên khảo, nhất là loại biên khảo quân sự, anh nghiêm túc, cẩn trọng, rành mạch, chu đáo. Nếu mục tiêu của trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam tại Đà Lạt là đào luyện cho đất nước những sĩ quan có tư cách và văn võ kiêm toàn, Trung tá Bùi Quyền của chúng ta rất xứng đáng với danh hiệu ấy.” (ngưng trích) 
Về việc tại sao sau 13 năm “học tập cải tạo”, ông Bùi Quyền không nộp đơn đi Mỹ theo “chương trình HO”, nhưng năm 1991, ông lại được Tổng thống George H.W. Bush, và Học Viện Không Lực của Hoa Kỳ (U.S. Air Force Academy ở Colorado Springs, Colorado) đón tiếp một cách trang trọng, theo Báo Viễn Đông, người con trai lớn của ông Bùi Quyền, Bùi Quang, cho biết nhờ sự giúp đỡ của Đại Tá Masuoka của Không Lực Hoa Kỳ, anh và người em trai, Bùi Tường, được nhận vào Học Viện Không Lực của Hoa Kỳ U.S. Air Force Academy ở Colorado Springs, tiểu bang Colorado. Khi ra trường, Bùi Quang đậu hạng nhì (Á Khoa). Trước ngày mãn khóa, Chỉ huy trưởng của trường gọi anh lên và nói: “Anh là người Việt Nam tỵ nạn, mới qua đây mà đã thành công rực rỡ. Anh có nhu cầu gì đặc biệt có thể cho tôi biết, nếu làm được, tôi sẽ cố gắng giúp anh toại nguyện.”
Bùi Quang trả lời: “Tôi chỉ có một ước vọng duy nhất là được nhìn thấy bố tôi ngồi trên khán đài dự lễ gắn lon của tôi.”
Với một ước vọng khiêm tốn nhưng khó lòng thực hiện vì nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam mới thả bố anh ra sau 13 năm “tù cải tạo” với nhiều lần bị biệt giam. Nhưng viên Tướng Hoa Kỳ không ngại khó, ông đã trình lên với Tổng Thống George H.W Bush, vị Tổng Thống thứ 41 của Hoa Kỳ đã làm áp lực buộc nhà cầm quyền CSVN phải cho Trung Tá Bùi Quyền sang Hoa Kỳ dự lễ ra trường của con trai ông. Và ông đã được máy bay đưa từ Việt Nam đến ngay phi trường Colorado Springs.
 
Và, dưới đây là lời ai điếu của ông Bùi Quang phát biểu trước linh cữu cha trong tang lễ cử hành sáng ngày 10 tháng 6 vừa qua tại Orange County, Nam California. Bài ai điếu bằng tiếng Anh, được ông Trần Trung Tín chuyển ngữ sang tiếng Việt như sau: 
“Thưa Bố,
“Lớn lên không có bố bên cạnh quả là điều khó khăn. Hằng đêm con đã cầu nguyện với hy vọng là bằng một cách nhiệm mầu nào đó bố sẽ được thả ra khỏi trại cải tạo của chính quyền Bắc Việt và cùng sống với mẹ và chúng con ở Mỹ. Rồi dần dà theo thời gian, con được biết thêm là trong những ngày cuối cùng của chính quyền miền Nam Việt Nam bố đã có cơ hội để rời Sài Gòn nhưng bố đã chọn ở lại để giúp tổ chức những tiểu đoàn Nhảy Dù cuối cùng còn sót lại của miền Nam Việt Nam để chiến đấu bảo vệ thành phố. Mặc dù bố đã thu xếp cho mẹ, em con, và con được an toàn rời khỏi đất nước, nhưng làm thế nào mà bố có thể nghĩ rằng mẹ và chúng con sẽ có thể tồn tại được tại một nơi xa lạ? Là một người nội trợ, mẹ chưa bao giờ ngược xuôi kiếm sống ngoài đời trong khi em trai của con và con mới chỉ lên bốn và năm tuổi. Mẹ và chúng con chỉ biết nói duy nhất mỗi tiếng Việt. Là một đứa bé lớn lên trong một gia đình đơn chiếc và những khó khăn về mặt tài chính, con đã không hiểu được tại sao một người chồng và một người cha lại đã chọn một con đường như thế đó và ý nghĩ này đã khiến con vừa buồn rầu vừa pha chút tức giận. 
“Đến khi lớn lên và học thêm được những khái niệm như trách nhiệm, danh dự và chính trực, con mới hiểu được nhiều hơn và từ đó con mới nhận ra rằng bố đã không có được một lựa chọn nào khác hơn vào ngày định mệnh đó, ngày mà bố đã đưa vợ và hai con trai nhỏ của mình lên máy bay để rời khỏi một quốc gia mà chẳng bao lâu nữa sẽ không còn hiện hữu. Con đã trở nên rất xấu hổ về những cảm xúc trước đây của mình khi còn bé bởi vì con đã hoàn toàn nhận ra được chân giá trị của việc bố phải ở lại và giữ trọn lời thề của mình để chỉ huy thuộc cấp của bố và để bảo vệ chính quyền quốc gia mà bố đã tuyên thệ phục vụ. 
“Không biết là có phải chuỗi dài của những sự kiện đó đã đưa đẩy con đến việc gặp được một người mà sau đó là bạn thân của gia đình, đó là Đại tá Không quân Hoa Kỳ: Masuoka hay không?  Ông đã trở thành Sĩ quan Liên lạc của con tại Học viện Không quân Hoa Kỳ và cũng là người tận tình giúp đỡ để con được hội ngộ (với bố) tại Học viện Không quân Hoa Kỳ. Con cũng không biết đó có phải là kết quả của những lời cầu nguyện của con vào thời thơ ấu? Nhưng khi Đại tá Masuoka, với sự giúp đỡ trực tiếp của cựu Tổng thống Hoa Kỳ, George Bush, báo cho con biết rằng bố sẽ (từ Việt Nam) đến Colorado Springs để trực tiếp tham dự lễ tốt nghiệp của con và giúp cho con gắn lên vai cặp lon Thiếu úy, thì con đã tưởng đó là điều không có thực. Quả là một sự phù hợp lạ lùng vì bố có mặt ngay lúc con tốt nghiệp khi mà Khóa của con ra trường năm 1991, có phương châm tiêu biểu cho khóa được khắc trên chiếc nhẫn tốt nghiệp là "Duty First, Integrity Always." (Trách Nhiệm: Thứ nhất, Chính Trực: Luôn luôn). 
“Nói được và hiểu được những điều này thì dễ. Nhưng sống sao cho được đúng với ý nghĩa của những điều đó, từ ngày này sang ngày khác, thì khó hơn rất nhiều, nhất là khi phải trực diện với những quyết định giống như vào một ngày trong tháng Tư năm 1975 trên bãi đậu của chiếc máy bay với người vợ và hai đứa con trai nhỏ đang ngơ ngác nhìn vào bố mong tìm được một sự che chở và hy vọng. Quả là một sự tan nát trong cõi lòng của bố!
 “Con rất tự hào là đứa con trai của bố, thưa Bố, và con chỉ có thể hy vọng rằng con có thể sống được một cuộc đời đúng theo các nguyên tắc mà bố đã sống và con sẽ truyền lại di sản của bố về trách nhiệm, danh dự và chính trực cho các cháu nội của bố. Trong cộng đồng người Việt miền Nam Việt Nam, danh thơm của bố rất tốt đẹp và vững chãi. Họ gọi bố là, "Anh Hùng Mũ Đỏ" hay Anh Hùng với Mũ Bê Rê Đỏ. Đó quả là một tặng phẩm tuyệt diệu và con không thể nghĩ ra được bất cứ điều gì thích hợp hơn nữa để mô tả một người đã sống một cuộc đời thực sự anh hùng.” (ngưng trich)
Thật tuyệt vời! Dù đây không phải là nguyên văn những lòi lẽ bằng tiếng Anh mà một người con đã nói để tiễn biệt người cha nhưng qua tài nghệ của người dịch, người đọc cũng cảm thấy thật xúc động và khâm phục cả cha lẫn con ông họ Bùi. Đúng là “cha nào, còn nấy”, mà tiếng Anh cũng có câu “like father, like son”.
 Một ngày vào cuối tháng 4 năm 1975, cậu bé Bùi Quang đã xa cha và rời khỏi quê hương mịt mù khói lửa vào lúc lên năm, cái tuổi mà đứa bé còn quá nhỏ dại để có nhận thức gì về đời sống chung quanh.  
 Thế mà “cậu bé Bùi Quang” ngày nào nay đã là một người đàn ông trung niên với khối óc và con tim đặc sệt Việt Nam, trừ tiếng nói “mẹ đẻ”, hậu quả của những tháng năm dài “hội nhập” trong cái “nồi xúp thập cẩm” (melting pot) của một đất nước hoàn toàn xa lạ.
 Với tình cảm và những nhận thức của ông Bùi Quang về người cha đáng kính, về gia đình và về quê hương thứ nhất Việt Nam thật là sâu sắc, cao quý, và rất đáng khâm phục. 
Trong lúc có nhiều người Việt Nam đã bỏ quê hương ra đi khi đã “khôn lớn”, để “tìm tự do”, để “chống cộng”, nhưng không bao lâu sau, họ đã trở nên rất mơ hồ, lầm lạc về nhận thức, bệnh hoạn về tình cảm. Đáng buồn là những con người như vậy không phải là hiếm trong cộng đồng người Việt hải ngoại hiện nay. Một sự thật mà không ai có thể chối cãi. Những người này, khi nghe hay đọc những lời ai điếu thâm trầm mà đầy sức mạnh đuổi xua bóng tối của ông Bùi Quang, không biết có ai cảm thấy “đỏ mặt”? 
Những lời lẽ trong bài ai điếu của ông Bùi Quang đã thể hiện hào khí của tinh hoa nước Việt được un đúc, truyền lại qua hàng ngàn năm lịch sử dân tộc. Nó như những tia sáng le lói hiện ra ở cuối con đường hầm âm u đi tới tương lai của đất nước Việt Nam ngày nay. 
Biết đâu trên đất nước Việt Nam bây giờ cũng chưa hết những con người như ông Bùi Quang và người cha đáng tôn kính của ông đã sống một cuộc đời như một gương sáng cho mọi người.
Trong tin buồn về sự ra đi của ông Bùi Quyền cũng đã có một tin vui.
 
Ký Thiệt
(Đời Nay ra ngày 19.6.2020)
Bui-Quyen-THB.jpg
Ông Bùi Quyền (từ trái sang phải): Thuở còn đi học - Khi là Chiến sĩ Dù QLVNCH- Ngày được ra tù sau 13 năm "học tập cải tạo".
 
 
funeralbd.JPG
Ông Bùi Quang trước linh cữu cha.
 
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
01 Tháng Năm 2011(Xem: 18429)
Rải tro theo gió... trên đỉnh đèo Hải Vân... ý nguyện của người đã khuất gợi lên trong tôi hình ảnh vừa bi hùng lại vừa lãng mạn, như là sự kết hợp tuyệt vời giữa mối tình của viên dũng tướng với cô con gái đầu lòng của nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.
27 Tháng Tư 2011(Xem: 19583)
Tôi không nói được gì hết, chỉ gục đầu vào vai vợ tôi rồi bật khóc . Vợ tôi chưa biết những gì đã xãy ra nhưng chắc nàng đoán được rằng tôi phải đau khổ lắm mới phát khóc như vậy. Cho nên nàng vừa đưa tay vuốt vuốt lưng tôi vừa nói, giọng đầy cảm xúc :« Ờ…Khóc đi anh ! Khóc đi ! »
23 Tháng Tư 2011(Xem: 18036)
Tôi ngồi đó để tưởng nhớ nước Việt Nam Cộng Hòa thân yêu của tôi. Tôi để hình tôi trên bàn thờ là coi như mình đã chết theo với nước Việt Nam Cộng Hòa của tôi. Tôi chỉ sống lây lất, lo nhang khói cho đồng đội, cho cha mẹ, vợ con
03 Tháng Tư 2011(Xem: 19698)
Trong niềm bồi hồi xúc động đến rưng rưng lệ khi đọc, chắc chắn quý độc giả không thể không biết ơn những người lính VNCH, Mỹ, Úc... đã đổ máu bảo vệ Miền Nam trước làn sóng xâm lăng của cộng sản trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam.... *
23 Tháng Ba 2011(Xem: 20133)
tưởng đã được giải quyết, phân tán người Việt Nam tỵ nạn trên nước Mỹ, nhưng không ngờ Xe đò Hoàng đơn thân độc mã mỗi ngày một chuyến kéo hai thành phố đông dân cư Việt Nam lại càng gần với nhau hơn nữa.
21 Tháng Hai 2011(Xem: 19841)
Già thì già, họ vẫn cảm thấy hạnh phúc – hạnh phúc hơn một tỷ người khác – cho dù hạnh phúc đó vẫn được họ đếm từng ngày sau mỗi buổi sớm mai thức dậy…
10 Tháng Hai 2011(Xem: 18517)
Tôi nhớ ơn anh chị, và cả vợ chồng anh Hy, chịu đựng được chúng tôi, mà không đấm cho vỡ mồm, hộc máu mũi. Càng lâu, tôi càng thấm thía cái câu ' Bầu bí một giàn'
04 Tháng Hai 2011(Xem: 19461)
Thế đó, họ bán, họ mua vừa như thật, vừa như “chơi” nhưng ai cũng hăm hở, náo nức. Dường như mỗi người đi chợ đang “bán”, đang “mua” cho mình một nỗi nhớ quê nhà vời vợi.
02 Tháng Hai 2011(Xem: 21361)
Hương thơm của gạo, vị ngọt của cơm lẩn với cát sạn tựa như cuộc đời của những quân nhân QLVNCH nói chung, SVSQTĐ nói riêng đã tự hào vào ngày mãn khóa sau mấy tháng quân trường mồ hôi thử thách đó là hương thơm của gạo. Để rồi chuẩn bị dấn thân vào cuộc đời đầy gian khổ hiểm nguy sống chết khó lường
28 Tháng Giêng 2011(Xem: 20995)
Họ gặp nhau và nhận ra nhau. Mới đầu, Hà Giang ôm chầm lấy Đôn mà khóc nức nở. Cô quên mất anh đang là một vị thầy tu. Xúc động nhất là khi Hà Giang cho anh biết Lam Khê chính là con của anh. Hai cha con họ ôm lấy nhau thật lâu và cả hai đầm đìa nước mắt.
21 Tháng Giêng 2011(Xem: 19738)
Hiện tại chúng tôi đang sống tràn trề hạnh phúc. Mùa xuân của cuộc đời tuy đến muộn nhưng chúng tôi bằng lòng lắm với những gì mình đang có, đang sống. Thiên đường có thật anh Hoàng ạ! Và chúng tôi đang tắm trong suối nguồn tươi mát của Thiên Đường.
16 Tháng Giêng 2011(Xem: 20174)
Thành phố lên đèn, tôi vật vờ vô định thoáng nghe bên tai tiếng dương cầm giai điệu bản "Giao hưởng số chin, cung rê thứ" của L.V. Beethoven mà tôi học ngày nào. Hiện tại, tôi chơi nhạc đám ma. Cái chết - quy luật tất yếu giúp tôi sinh tồn, các giá trị nghệ thuật cao quý chỉ còn là hoài niệm!
02 Tháng Giêng 2011(Xem: 21887)
Mũi súng AK thúc vào cạnh sườn, người vệ binh chắc cũng ngạc nhiên không hiểu sao bỗng dưng tôi đứng như trời trồng giữa lộ. Anh quắc mắt nhìn tôi dò hỏi, tôi không nói gì, im lặng nhập vào dòng tù. Nước mắt chảy dài trên hai má hóp, tôi bước đi như kẻ mộng du ...
07 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20689)
Trong cuộc chiến Việt Nam, những chàng pilot nổi tiếng hào hoa ở thành phố. Là thần tượng của các cô con gái đẹp. Nhưng có lẽ ít ai biết rằng, những chàng trai trẻ ấy lại là những chiến sĩ rất hào hùng trên khắp các chiến trường. Bao phen xem cái chết tựa lông hồng.
05 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 21694)
Lâu nay, khá đông người cho rằng thi sĩ Hàn Mạc Tử và nhà giáo kiêm cư sĩ Hoàng Thị Kim Cúc từng có một tình yêu đôi lứa. Lắm sách báo ghi nhận như vậy. Ngay cả lối sống khá đặc biệt của Kim Cúc – suốt đời độc thân, làm thơ tặng Hàn, chẳng chuyện trò điều này với người trong nhà… – càng khiến dư luận nghĩ vậy.
02 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20147)
Hầu hết bạn bè tôi, nếu còn sống sót sau cuộc chiến tang thương đó, kẻ đã phải ra đi trong loạn lạc, ly tan, người thì được ông bạn đồng minh phản bội năm xưa, can thiệp với kẻ cựu thù cho "ra đi trong vòng trật tự" sau nhiều năm bị đày đọa ngục tù, vợ con nheo nhóc, để giờ này mỗi người trôi dạt một phương, mang theo những vết thương không lành được ở trong lòng. Biết đến khi nào chúng tôi mới đuợc như những con chim trane đang tụ tập ca hót líu lo ngoài kia, trươc giờ bay xuống phương nam?
17 Tháng Mười Một 2010(Xem: 20941)
Một câu chuyện thật dí dỏm. Câu chuyện phần nào đã gợi nhớ đến một quảng đời thơ ấu thật êm đềm, hoa bướm ở vùng quê . Phải chi không có biến cố tháng tư 75, cuộc sống của những người dân miền nam hiền hòa chắc chắn là mãi mãi thanh bình, thịnh vượng, và an lành như tác giả "Lấy vợ miền quê" đã mô tả rất chân thật trong câu chuyện
11 Tháng Mười 2010(Xem: 19282)
Bây giờ, nhìn chú Ba nằm đó, tôi lại nhớ câu nói cuối cùng của chú: “Cứ để lá cờ ở đó, trong đầu óc của chú sẽ nhớ mãi hình ảnh lá cờ VNCH tung bay trong gió. Sau này, lá cờ sẽ ra sao? Để tương lai trả lời.”
08 Tháng Mười 2010(Xem: 20131)
Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo Tỉnh lộ 7 ngày xưa, mang theo trong lòng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng cả bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nhìn núi rừng hai bên đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn nữa...
08 Tháng Mười 2010(Xem: 21868)
Mọi người đều đến cõi đời nầy với hai bàn tay trắng, thì lúc ra đi cũng chỉ với hai bàn tay trắng mà thôi. Ai ai cũng đều biết như vậy, nhưng hễ sao mỗi khi nghĩ đến chết thì thấy rờn rợn và hơi lo một chút... Sống sao cho đáng sống mới là việc khó. Đời là vô thường!
07 Tháng Mười 2010(Xem: 27839)
Kính nguyện cầu Đấng Thiên Thựợng Đế tối cao và Hồn thiêng sông núi phù hộ cho toàn dân Việt sớm có ngày "đắc lộ thanh vân", đưa nước Việt lên đỉnh đài vinh quang thịnh trị ngàn đời.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 22567)
Chúng ta thường đi tìm một cái gì bên ngoài để mang lại cho mình hạnh phúc như vật chất, nhà cửa, xe hơi, máy móc, tiện nghi, … hoặc tình cảm gia đình, thân quyến, bạn bè, người yêu, … hoặc danh vọng, địa vị, lý tưởng. Ta khát khao tìm kiếm vì tưởng mình nghèo nàn, thiếu thốn, tâm luôn phóng ra ngoài chạy theo trần cảnh. Trong kinh Pháp Hoa kể thí dụ đứa cùng tử suốt đời đi ăn xin vì không biết trong túi mình có viên ngọc quý, đến khi được người bạn nhắc tỉnh ngộ lấy ngọc ra xài liền hết đói khổ.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 18768)
Tháng 8-1999, tôi dọn nhà đến một căn phòng mới mướn. Trên ngăn kệ cao của closet, người mướn trước để sót lại một xấp “hồi ký” dầy 27 trang viết tay. Đêm đầu tiên ở phòng trọ mới, tôi đọc đoạn “hồi ký” bi hùng đó với nỗi niềm thương cảm không tả xiết: Thương cảm cho một danh tướng trong bước đường cùng của vận nước đen tối; thương cảm cho phu nhân và 2 người con của Tướng tuẫn tiết và thương cảm vị sĩ quan trẻ, có lẽ là Chánh Văn Phòng của vị tướng anh hùng, tức tác giả của đoạn “hồi ký” nầy.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 19602)
Lần nầy, bà Hoa quyết định tự tay đem hộp tro xương ông chồng về tận Việt Nam. Bà sợ thất lạc thêm lần nữa, thì tấm lòng hoài.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 23149)
Người chết lâu rồi , người còn ở lại Từ cuối chân mây đêm bấc lạnh lùng Ngày hiển thánh cả giống nòi mong mỏi Của những linh hồn hữu thủy hữu chung
06 Tháng Mười 2010(Xem: 19688)
Tôi chắc chồng tôi cũng nuối tiếc như tôi và đang chờ tôi đi với anh. Chúng tôi phải nối tiếp lại những ngày hạnh phúc ngắn ngủi xa xưa. Tôi không thể sống mãi trong cô đơn để run sợ trước những ám ảnh của dĩ vãng và những nhung nhớ khôn nguôi người chồng mà tôi mãi mãi yêu thương như buổi đầu gặp gỡ!!
06 Tháng Mười 2010(Xem: 21536)
Cổ nhân cũng đã có câu “ngu si hưởng thái bình”, hay là ta cứ an phận thủ thường, con gái thì mong trời sinh ra đừng quá đẹp, con trai thì đừng có quá tài ba. Còn giàu có bạc muôn không ham, chỉ mong đừng chạy gạo từng ngày. Cứ làng nhàng là xong, không ai thèm muốn, đố kỵ, ganh ghét, nghĩ chuyện đời: “Giàu như người ta cơm ngày ba bữa, đói như mình đây cũng đỏ lửa ba lần.”
05 Tháng Mười 2010(Xem: 19452)
hôm nay ngồi viết lại những hàng chữ này như được thắp nén hương trang trọng cho chị, thưa chị Nở.