2:29 CH
Thứ Tư
24
Tháng Tư
2024

ĐI HỐT CỐT CHA TỪ TRẠI TÙ NGOÀI BẮC

29 Tháng Tám 20198:48 SA(Xem: 7984)

ĐI HỐT CỐT CHA TỪ TRẠI TÙ NGOÀI BẮC 
https://www.rfa.org/…/exhume-n-move-prisoners-of-war-died-i…

Câu chuyện sau đây có thể không liên quan nhiều đến nước Mỹ nhưng là một trong những mãnh vỡ cuộc đời của một đứa con người tù cải tạo sau ngày thất trận bi thảm 1975. Là lý do của những cuộc ra đi và định cư tại miền đất cách xa quê nhà hơn nửa vòng trái đất.
***
Ngày đưa ba đi trình diện học tập dành cho “sĩ quan nguỵ quân” tại trường Chu Văn An năm 1975, là khoảnh khắc cuối cùng mẹ nhìn thấy mặt ba còn sống. Chuyến đi tưởng chỉ 10 ngày trở thành 2 năm 6 tháng chia lìa và xa nhau mãi mãi. Mỏi mòn chờ đợi để cuối cùng chỉ được ôm xác người chồng yêu thương lần cuối cùng ở một trại cải tạo ngút ngàn tận cùng biên giới Việt Trung.

Tháng hai năm 1979, trở về Sài Gòn sau khi để lại ba nằm hiu quạnh trong trại cải tạo Tân Lập Vĩnh Phú, mẹ trở thành một người hoàn toàn khác hẳn. Cái tính cứng cỏi ngày xưa của mẹ giờ thêm lòng căm thù và nỗi đau mất chồng khiến mẹ trở nên điên dại. Đã có những tháng ngày mẹ không thiết tha gia đình, lang thang từ nhà ra chợ. Câu chuyện mất chồng của mẹ lan truyền nhanh chóng trong khu xóm đường Lam Sơn với toàn gia đình sĩ quan chế độ cũ. Lan truyền đến tận cái chợ nhỏ Cây Quéo cuối con đường Hoàng Hoa Thám quận Bình Thạnh. Ai cũng biết câu chuyện người đàn bà Huế mất chồng trong trại cải tạo.

Cuộc sống gian khổ, nỗi nhớ chồng quay quắt làm mẹ ngày một gầy guộc đi. Đã không còn là người đàn bà trắng trẻo mập mạp phúc hậu của khu phố sĩ quan ngày nào. Ban ngày chỉ là tạm quên, đêm về là những giây phút mẹ nhớ đến cái lặng lẽ cô độc của ba nơi miền đất phía Bắc xa xôi. Nhớ đến cặp mắt chưa kịp khép của ba trong ngày gặp mặt. Mẹ cứ hay bảo, không biết ba mày có đói hay không, áo quần có lành lặn hay không, có ai hành hạ ba mày hay không. Rồi mẹ lại khóc và mẹ lại nhớ đến cái khuôn mặt hốc hác, tiều tuỵ ngày ba qua đời. Nhớ đến hàm râu dài lưa thưa, cái thân hình gầy guộc và cái áo cũ rách nát tả tơi. Có những đêm ngồi bên cửa sổ nhìn ra khoảng tối mênh mông, mẹ lặng lẽ khóc nức nở một mình.

Những tháng năm sau đó với mẹ con tôi, thời gian qua thật dài. Không biết làm gì để an ủi mẹ ngoài chuyện cùng mẹ thay ba lo cho những đứa em còn nhỏ dại. Ngoài giờ làm việc tại Bưu Điện, vợ chồng tôi phụ me, làm đủ thứ nghề để sinh sống. Bán quần áo cũ tại chợ trời, làm bánh đậu xanh, nuôi gà trong phòng ngủ, nuôi heo trong cầu tiêu để chỉ thật mong đến ngày đủ sức đem ba trở lại quê nhà.

Cùng với những vất vả lo toan cho cuộc sống, qua thời gian, mẹ và chúng tôi phải làm quen những ngày tháng không có ba. Các em vẫn hằng ngày cắp sách đến trường. Vợ chồng chúng tôi đã có đứa con đầu tiên. Đứa cháu ra đời chưa bao giờ thấy được ông nội bằng xương bằng thịt. Mỗi khi nhìn con tôi lại nhớ đến ba. Cháu bao nhiêu tuổi, bấy nhiêu năm ba rời xa chúng tôi.

Có những ngày ăn bo bo thay cơm. Có những ngày liên tiếp không có gạo chỉ có bột mì. (Thời đó tại Sài Gòn chúng tôi phải làm quen với chế độ tem phiếu như ngoài Bắc). Tùy theo lúc, theo số người trong gia đình, có khi được cấp gạo, có khi nhận toàn bột mì, cũng có khi cả tuần nhận toàn bo bo. Mẹ xoay xở chế biến thành đủ thứ món ăn bằng bột mì cho đỡ ngán. Dù sao thì cũng không thể gian khổ bằng ba trong những ngày tù miền Bắc. Tôi tự an ủi như vậy để sống. Mẹ bề ngoài rất can trường nhưng trong lòng lúc nào cũng canh cánh nỗi lo về ba. Mẹ lúc nào cũng ao ước đem được ba về. Hết than ngắn lại thở dài.

Thường phải qua 3 năm, mới có thể dời mộ nhưng chỉ mới chưa đầy 3 năm, thương mẹ mỏi mòn trông đợi, tôi cùng mẹ xin giấy phép ra Bắc đem xác ba về.

Dĩ nhiên mọi chuyện không dễ dàng. Thời đó làm gì có cái loại giấy phép ra trại cải tạo để đem xác chồng. Lên phường xin đại cái giấy phép ra thăm ông chú còn ở lại ngoài Bắc. Cứ ra Hà Nội cái đã mọi chuyện tính sau.

Thế là sáng ngày 15 tháng 8 năm 1981, hai mẹ con khăn gói lên tàu hoả “thống nhất”, miền Bắc trực chỉ. Ở lại nhà chú một đêm, hôm sau cùng với ông Tiến, người chuyên bốc mộ thuê do chú giới thiệu, ba chúng tôi lại lên tàu chợ Hà Nội – Vĩnh Phú tiếp tục cuộc hành trình. So với 2 lần đi thăm ba những năm về trước, chuyến đi này tương đối dễ dàng hơn. Hành lý của hai mẹ con chỉ là một cái xách tay nhỏ đựng vài bộ áo quần và một ít thức ăn khô, duy chỉ có ông Tiến là lỉnh kỉnh cuốc xẻng, mấy cái bị lác và mấy chai dầu hồi, ông bảo dùng để rửa xương.

Tướng người ông Tiến đen đúa khắc khổ nhưng nhanh nhen và vui tính. Cái giọng bắc 75 mới đầu hơi khó nghe, rồi cũng quen dần. Chuyến đi có thêm người đào mộ thuê cũng nhờ thế làm thời gian trôi qua nhanh hơn. Ông làm cái nghề này cũng đã mấy mươi năm sau cái ngày cởi bỏ áo quần bộ đội. Ai cần đào mộ là có mặt ông. Thường bốc xác lên đem đi chôn chỗ khác, cũng có khi đem đi thiêu.

Miền Bắc hồi đó có rất nhiều những ngôi mộ vô danh nằm lẫn trong các ruộng vườn. Người ta nhờ ông. Ông lại có thêm công việc tìm kiếm, đào xới, dọn dẹp và đem vào các hố chôn tập thể. Hay có khi chỉ cần tẩm dầu và đốt. Ông kể, công việc tuy vất vả nhưng cứ có hoài. Tiền thì không bao nhiêu vì dân ở đây thường rất nghèo, nhưng cũng đủ sống qua ngày.

Ông lão chép miệng. 30 năm đi lính, chỉ biết đánh nhau, xuất ngũ không có tay nghề, làm cái việc suốt ngày bên các xác chết ít người chịu được, cũng ít gian khổ hơn thời chiến tranh. Ông nói thêm, đây là lần đầu tiên có người trong Nam ra nhờ ông, lại là đào mộ của người học tập cải tạo. Tôi hỏi, người chết là sĩ quan miền Nam, sao ông vẫn nhận. Ông lão chép miệng, cũng là con người cả. Ai chết rồi cũng như nhau, hận thù gì nữa. Mà thật ra tôi có thù hận ai đâu. Ngày xưa đi lính, bảo bắn thì tôi bắn, không bắn thì chết sao ông.

Lần đầu tiên trên một miền đất với tôi chỉ là thù hận, tôi thấy một cảm giác an toàn.

.
Từ sáng sớm ba người chúng tôi lên ga Hàng Cỏ và đến tối thì chúng tôi đến trại K2. Sáng hôm sau chúng tôi gặp cán bộ trại xin đào lấy xác ba đem về chôn tại quê nhà và như dự đoán bị từ chối ngay. Lý do phải có giấy cho phép của cấp trên. Thời gian chờ đợi ít nhất cũng phải trên ba tháng. Hơn nữa, tay cán bộ trại giam nói thêm, ông nhà chết chưa quá ba năm chắc cấp trên không cho đâu.

Không còn cách nào khác, không lẽ lặn lội mấy ngàn cây số ra đây rồi về tay không, chúng tôi quyết định đi bốc mộ trộm. Đến lúc này mỗi khi nhớ lại tối hôm đó tôi vẫn còn rùng mình. Tôi vẫn không hiểu tại sao mình lại quyết định liều lĩnh như vậy. Đào mộ chui, chết hoặc ở tù như chơi. Có lẽ phần vì còn trẻ liều lĩnh, phần thương ba, thương mẹ và một phần do sự khuyến khích của người đào mộ thuê. Cũng may là ngôi mộ của ba nằm ngoài vòng đai trại cải tạo, nếu không ai biết trước việc gì sẽ xảy ra cho chúng tôi.

Đêm đó đợi lúc trời chạng vạng tối, trời mưa lất phất, 3 người chúng tôi đi đến khu rừng có mộ ba. Tôi vẫn nhớ rất rõ đường đi. Cũng không xa lắm vành đai trại và cũng chỉ một con đường đất nhỏ hẹp.

Vẫn không thay đổi gì nhiều, chỉ khác là cỏ mọc um tùm hơn. Cây thánh giá trước mộ vẫn còn đó, xiêu vẹo. Dấu khắc tên ba trên cây vẫn còn dù thời gian có làm mờ đi. Và cũng chỉ duy nhất một mình ngôi mộ của ba nằm ở đó, lạnh lẽo, hiu quạnh. Chung quanh không có ngôi mộ nào khác. Có lẽ chỉ một mình ba tôi là có thân nhân đến tiễn đưa khi chết, nên được chôn nơi đây. Những người khác chắc chỉ được bó chiếu, nằm chung nhau trong một ngôi mộ tập thể vô danh nào đó.

Chúng tôi bắt đầu công việc đào đất trong cái ánh đèn cầy leo lét. Người đào mộ làm việc chuyên nghiệp và nhanh thoăn thoắt. Lớp đất xốp có lẽ được lấp vội vàng nên công việc đào xới cũng dễ dàng. Rồi cũng đến lúc chạm đến cái nắp hòm củ kỹ mục nát. Nén xúc động, tôi mở nắp quan tài. Ba nằm đó, bộ xương còn nguyên vẹn với một phần da thịt và tóc chưa phân hủy hết.

Chúng tôi nhặt xương ba lên theo thứ tự đầu, giữa, chân, tay, bên phải bên trái. Mẹ nức nở nhưng không dám khóc to. Mẹ vừa khóc vừa rửa xương ba bằng chai nước cánh hồi, sau đó chúng tôi phụ nhau bỏ vào hai xách tay bằng lác mang theo. Một bao tôi xách gồm phần đầu và phần tay chân bên trái. Bao lác của mẹ gồm xương sống và phần tay chân bên phải. Người đào mộ dặn phải làm như thế để khi về đem chôn trở lại, ba mới siêu thoát với hình hài còn nguyên vẹn chân tay.

Chúng tôi lặng lẽ vượt gần 30 cây số lên đường trở ra ga Ấm Thượng ngay trong đêm. Cũng phải vượt qua hai con sông nước chảy xiết, qua những con đường đất quanh co, và những ngôi nhà leo lét ánh đèn. Không một bóng người. Tiễn chúng tôi chỉ là những tiếng côn trùng ếch nhái và những giọt mưa phùn lành lạnh.

Vừa đi vừa cầu nguyện. Rồi cũng suông sẻ ra đến ga Ấm Thượng khi trời tờ mờ sáng. Kịp đón chuyến tàu về đến ga Hàng Cỏ Hà Nội thì cũng đã xế chiều. Mệt lả người vì thiếu ăn và thiếu ngủ nhưng chúng tôi rất vui vì đã đem ba về an toàn.

Chia tay người bốc mộ ngay tại sân ga, bấy giờ tôi mới cảm thấy đói. Hai mẹ con ngồi tựa cột đèn nhà ga, mỗi người ôm chặt một bị lác chứa xương người. Chúng tôi chia nhau ăn ổ bánh mì dai nhách, uống ly chè xanh đắng chát, nhưng thật ngon lành.

Đêm lạnh, hai mẹ con chúng tôi ngồi bên nhau, cô độc ngay trong cái sân ga đông kịt người. Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa mãi mãi với tôi vẫn là nơi vô cùng xa lạ và không bao giờ muốn quay về.

Đang nằm thiu thiu ngủ bỗng dưng tôi thấy tay mình nhẹ tưng, bừng tỉnh cũng là lúc tôi thấy một bóng người phóng qua mình tôi về phía trái. Ôi cái bị lác của tôi. Tôi phóng người đuổi theo, vừa chạy vừa la: xương người, xương người. Đứa bé ăn trộm bị tôi đuổi kịp quăng bị lác xuống đất chạy vào bóng đêm mất dạng. Tôi lượm bị lác lên và ôm chặt vào lòng. Đêm đó hai mẹ con lại ngồi tựa cột đèn, thức trắng. Lại một đêm thật dài, dài đến vô cùng.

Trời mới tờ mờ sáng, chúng tôi lên chuyến tàu sớm đầu tiên xuôi Nam và đến ga Huế vào nửa đêm.

Nhà ông bà ngoại tôi nằm dưới chân núi Ngự Bình, cách lăng Thành Thái không bao xa. Ngôi nhà cổ với sân vườn sau là các ngôi mộ của gia tộc bên ngoại. Về nhà quá khuya nhưng đã có rất đông họ hàng, các em cùng vợ con tôi từ Đà Nẵng về cả ngày hôm trước. Có cả ông Cặn hàng xóm, người chuyên môn lo về cúng kiếng với hòm rương nhang đèn đầy đủ.

Đám ma của ba tôi được tổ chức đơn giản nhưng với đầy đủ thủ tục lễ nghĩa như với một người vừa mới qua đời. Xương của ba được sắp xếp lại theo thứ tự tay chân trái phải và đưọc đặt vào quan tài cùng với các đồ dùng còn sót lại của những ngày trong trại cải tạo. Không thể mặc cho ba manh áo mới lành lặn, mẹ xếp ngay ngắn bên cạnh.

Bà con hàng xóm láng giềng khu vực An Lăng có mặt thật đông. Hôm đó mẹ đã khóc ngất đi nhiều lần mặc dầu ba qua đời đã lâu. Dù sao mẹ cũng đã mãn nguyện thực hiện được ước muốn từ bao năm qua: đưa được ba về, nằm ấm cúng trong mảnh vườn nhỏ gia tộc bên cạnh ôn mệ, họ hàng. Hôm đó tôi đã khấn trước mộ ba: Ba ơi, hãy yên nghỉ, chúng con luôn thương nhớ ba. Con sẽ thay ba lo cho mẹ và các em. Ba có linh thiêng xin phù hộ cho mẹ và cho chúng con.

Tôi tin là có một thế giới, nơi ba đang sống, thật gần với chúng tôi, luôn theo dõi phù hộ chúng tôi, trong những ngày đen tối còn lại tại quê nhà và những tháng năm lưu lạc trên quê người.

Đã 40 năm sau ngày ba mất, đại gia đình chúng tôi, một mẹ và 9 người con vẫn đang thật bình yên trên xứ Mỹ này. Mỗi năm chúng tôi đều thay phiên về thăm ba. Ngôi mộ được chăm sóc có sạch sẽ bởi một người bà con còn ở lại. Chỉ riêng tôi, hơn 20 năm qua vẫn chưa một lần trở lại. Chắc ba cũng hiểu, nỗi đau vẫn còn mãi trong tôi. Đã có những khó khăn, đã có những vất vả trên quê hương thứ hai này, nhưng mẹ và anh em chúng tôi đều kiên cường vượt qua để sống một cách lương thiện.

Dù mẹ đã lúc quên lúc nhớ nhưng tôi vẫn luôn tin rằng hình bóng của ba vẫn luôn còn mãi trong tận cùng trái tim của mẹ. Mẹ không nói, nhưng chắc vẫn nhớ nhiều điều trong quá khứ, nhất là cái ngày hai mẹ con mình đi nhặt lại xác cha, phải không mẹ của con.
Viết trong ngày Vu Lan 2019
Vô Danh

Ý kiến bạn đọc
14 Tháng Hai 20205:43 CH
Khách
Chuyen rat cam dong.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
01 Tháng Năm 2011(Xem: 18527)
Rải tro theo gió... trên đỉnh đèo Hải Vân... ý nguyện của người đã khuất gợi lên trong tôi hình ảnh vừa bi hùng lại vừa lãng mạn, như là sự kết hợp tuyệt vời giữa mối tình của viên dũng tướng với cô con gái đầu lòng của nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.
27 Tháng Tư 2011(Xem: 19672)
Tôi không nói được gì hết, chỉ gục đầu vào vai vợ tôi rồi bật khóc . Vợ tôi chưa biết những gì đã xãy ra nhưng chắc nàng đoán được rằng tôi phải đau khổ lắm mới phát khóc như vậy. Cho nên nàng vừa đưa tay vuốt vuốt lưng tôi vừa nói, giọng đầy cảm xúc :« Ờ…Khóc đi anh ! Khóc đi ! »
23 Tháng Tư 2011(Xem: 18139)
Tôi ngồi đó để tưởng nhớ nước Việt Nam Cộng Hòa thân yêu của tôi. Tôi để hình tôi trên bàn thờ là coi như mình đã chết theo với nước Việt Nam Cộng Hòa của tôi. Tôi chỉ sống lây lất, lo nhang khói cho đồng đội, cho cha mẹ, vợ con
03 Tháng Tư 2011(Xem: 19795)
Trong niềm bồi hồi xúc động đến rưng rưng lệ khi đọc, chắc chắn quý độc giả không thể không biết ơn những người lính VNCH, Mỹ, Úc... đã đổ máu bảo vệ Miền Nam trước làn sóng xâm lăng của cộng sản trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam.... *
23 Tháng Ba 2011(Xem: 20242)
tưởng đã được giải quyết, phân tán người Việt Nam tỵ nạn trên nước Mỹ, nhưng không ngờ Xe đò Hoàng đơn thân độc mã mỗi ngày một chuyến kéo hai thành phố đông dân cư Việt Nam lại càng gần với nhau hơn nữa.
21 Tháng Hai 2011(Xem: 19929)
Già thì già, họ vẫn cảm thấy hạnh phúc – hạnh phúc hơn một tỷ người khác – cho dù hạnh phúc đó vẫn được họ đếm từng ngày sau mỗi buổi sớm mai thức dậy…
10 Tháng Hai 2011(Xem: 18595)
Tôi nhớ ơn anh chị, và cả vợ chồng anh Hy, chịu đựng được chúng tôi, mà không đấm cho vỡ mồm, hộc máu mũi. Càng lâu, tôi càng thấm thía cái câu ' Bầu bí một giàn'
04 Tháng Hai 2011(Xem: 19539)
Thế đó, họ bán, họ mua vừa như thật, vừa như “chơi” nhưng ai cũng hăm hở, náo nức. Dường như mỗi người đi chợ đang “bán”, đang “mua” cho mình một nỗi nhớ quê nhà vời vợi.
02 Tháng Hai 2011(Xem: 21462)
Hương thơm của gạo, vị ngọt của cơm lẩn với cát sạn tựa như cuộc đời của những quân nhân QLVNCH nói chung, SVSQTĐ nói riêng đã tự hào vào ngày mãn khóa sau mấy tháng quân trường mồ hôi thử thách đó là hương thơm của gạo. Để rồi chuẩn bị dấn thân vào cuộc đời đầy gian khổ hiểm nguy sống chết khó lường
28 Tháng Giêng 2011(Xem: 21079)
Họ gặp nhau và nhận ra nhau. Mới đầu, Hà Giang ôm chầm lấy Đôn mà khóc nức nở. Cô quên mất anh đang là một vị thầy tu. Xúc động nhất là khi Hà Giang cho anh biết Lam Khê chính là con của anh. Hai cha con họ ôm lấy nhau thật lâu và cả hai đầm đìa nước mắt.
21 Tháng Giêng 2011(Xem: 19847)
Hiện tại chúng tôi đang sống tràn trề hạnh phúc. Mùa xuân của cuộc đời tuy đến muộn nhưng chúng tôi bằng lòng lắm với những gì mình đang có, đang sống. Thiên đường có thật anh Hoàng ạ! Và chúng tôi đang tắm trong suối nguồn tươi mát của Thiên Đường.
16 Tháng Giêng 2011(Xem: 20272)
Thành phố lên đèn, tôi vật vờ vô định thoáng nghe bên tai tiếng dương cầm giai điệu bản "Giao hưởng số chin, cung rê thứ" của L.V. Beethoven mà tôi học ngày nào. Hiện tại, tôi chơi nhạc đám ma. Cái chết - quy luật tất yếu giúp tôi sinh tồn, các giá trị nghệ thuật cao quý chỉ còn là hoài niệm!
02 Tháng Giêng 2011(Xem: 21973)
Mũi súng AK thúc vào cạnh sườn, người vệ binh chắc cũng ngạc nhiên không hiểu sao bỗng dưng tôi đứng như trời trồng giữa lộ. Anh quắc mắt nhìn tôi dò hỏi, tôi không nói gì, im lặng nhập vào dòng tù. Nước mắt chảy dài trên hai má hóp, tôi bước đi như kẻ mộng du ...
07 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20775)
Trong cuộc chiến Việt Nam, những chàng pilot nổi tiếng hào hoa ở thành phố. Là thần tượng của các cô con gái đẹp. Nhưng có lẽ ít ai biết rằng, những chàng trai trẻ ấy lại là những chiến sĩ rất hào hùng trên khắp các chiến trường. Bao phen xem cái chết tựa lông hồng.
05 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 21798)
Lâu nay, khá đông người cho rằng thi sĩ Hàn Mạc Tử và nhà giáo kiêm cư sĩ Hoàng Thị Kim Cúc từng có một tình yêu đôi lứa. Lắm sách báo ghi nhận như vậy. Ngay cả lối sống khá đặc biệt của Kim Cúc – suốt đời độc thân, làm thơ tặng Hàn, chẳng chuyện trò điều này với người trong nhà… – càng khiến dư luận nghĩ vậy.
02 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20243)
Hầu hết bạn bè tôi, nếu còn sống sót sau cuộc chiến tang thương đó, kẻ đã phải ra đi trong loạn lạc, ly tan, người thì được ông bạn đồng minh phản bội năm xưa, can thiệp với kẻ cựu thù cho "ra đi trong vòng trật tự" sau nhiều năm bị đày đọa ngục tù, vợ con nheo nhóc, để giờ này mỗi người trôi dạt một phương, mang theo những vết thương không lành được ở trong lòng. Biết đến khi nào chúng tôi mới đuợc như những con chim trane đang tụ tập ca hót líu lo ngoài kia, trươc giờ bay xuống phương nam?
17 Tháng Mười Một 2010(Xem: 21043)
Một câu chuyện thật dí dỏm. Câu chuyện phần nào đã gợi nhớ đến một quảng đời thơ ấu thật êm đềm, hoa bướm ở vùng quê . Phải chi không có biến cố tháng tư 75, cuộc sống của những người dân miền nam hiền hòa chắc chắn là mãi mãi thanh bình, thịnh vượng, và an lành như tác giả "Lấy vợ miền quê" đã mô tả rất chân thật trong câu chuyện
11 Tháng Mười 2010(Xem: 19383)
Bây giờ, nhìn chú Ba nằm đó, tôi lại nhớ câu nói cuối cùng của chú: “Cứ để lá cờ ở đó, trong đầu óc của chú sẽ nhớ mãi hình ảnh lá cờ VNCH tung bay trong gió. Sau này, lá cờ sẽ ra sao? Để tương lai trả lời.”
08 Tháng Mười 2010(Xem: 20235)
Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo Tỉnh lộ 7 ngày xưa, mang theo trong lòng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng cả bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nhìn núi rừng hai bên đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn nữa...
08 Tháng Mười 2010(Xem: 21989)
Mọi người đều đến cõi đời nầy với hai bàn tay trắng, thì lúc ra đi cũng chỉ với hai bàn tay trắng mà thôi. Ai ai cũng đều biết như vậy, nhưng hễ sao mỗi khi nghĩ đến chết thì thấy rờn rợn và hơi lo một chút... Sống sao cho đáng sống mới là việc khó. Đời là vô thường!
07 Tháng Mười 2010(Xem: 27945)
Kính nguyện cầu Đấng Thiên Thựợng Đế tối cao và Hồn thiêng sông núi phù hộ cho toàn dân Việt sớm có ngày "đắc lộ thanh vân", đưa nước Việt lên đỉnh đài vinh quang thịnh trị ngàn đời.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 22678)
Chúng ta thường đi tìm một cái gì bên ngoài để mang lại cho mình hạnh phúc như vật chất, nhà cửa, xe hơi, máy móc, tiện nghi, … hoặc tình cảm gia đình, thân quyến, bạn bè, người yêu, … hoặc danh vọng, địa vị, lý tưởng. Ta khát khao tìm kiếm vì tưởng mình nghèo nàn, thiếu thốn, tâm luôn phóng ra ngoài chạy theo trần cảnh. Trong kinh Pháp Hoa kể thí dụ đứa cùng tử suốt đời đi ăn xin vì không biết trong túi mình có viên ngọc quý, đến khi được người bạn nhắc tỉnh ngộ lấy ngọc ra xài liền hết đói khổ.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 18871)
Tháng 8-1999, tôi dọn nhà đến một căn phòng mới mướn. Trên ngăn kệ cao của closet, người mướn trước để sót lại một xấp “hồi ký” dầy 27 trang viết tay. Đêm đầu tiên ở phòng trọ mới, tôi đọc đoạn “hồi ký” bi hùng đó với nỗi niềm thương cảm không tả xiết: Thương cảm cho một danh tướng trong bước đường cùng của vận nước đen tối; thương cảm cho phu nhân và 2 người con của Tướng tuẫn tiết và thương cảm vị sĩ quan trẻ, có lẽ là Chánh Văn Phòng của vị tướng anh hùng, tức tác giả của đoạn “hồi ký” nầy.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 19707)
Lần nầy, bà Hoa quyết định tự tay đem hộp tro xương ông chồng về tận Việt Nam. Bà sợ thất lạc thêm lần nữa, thì tấm lòng hoài.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 23251)
Người chết lâu rồi , người còn ở lại Từ cuối chân mây đêm bấc lạnh lùng Ngày hiển thánh cả giống nòi mong mỏi Của những linh hồn hữu thủy hữu chung
06 Tháng Mười 2010(Xem: 19784)
Tôi chắc chồng tôi cũng nuối tiếc như tôi và đang chờ tôi đi với anh. Chúng tôi phải nối tiếp lại những ngày hạnh phúc ngắn ngủi xa xưa. Tôi không thể sống mãi trong cô đơn để run sợ trước những ám ảnh của dĩ vãng và những nhung nhớ khôn nguôi người chồng mà tôi mãi mãi yêu thương như buổi đầu gặp gỡ!!
06 Tháng Mười 2010(Xem: 21663)
Cổ nhân cũng đã có câu “ngu si hưởng thái bình”, hay là ta cứ an phận thủ thường, con gái thì mong trời sinh ra đừng quá đẹp, con trai thì đừng có quá tài ba. Còn giàu có bạc muôn không ham, chỉ mong đừng chạy gạo từng ngày. Cứ làng nhàng là xong, không ai thèm muốn, đố kỵ, ganh ghét, nghĩ chuyện đời: “Giàu như người ta cơm ngày ba bữa, đói như mình đây cũng đỏ lửa ba lần.”
05 Tháng Mười 2010(Xem: 19563)
hôm nay ngồi viết lại những hàng chữ này như được thắp nén hương trang trọng cho chị, thưa chị Nở.