7:42 SA
Thứ Năm
25
Tháng Tư
2024

Hồi ký cuộc vượt biển cuối tháng 3 năm 75 - Hồng Vũ

01 Tháng Tư 201911:29 CH(Xem: 9093)

  Hồi ký cuộc vượt biển cuối tháng 3 năm 75

                                                                            

                                                                                     

Đầu tháng 7, 2016 vừa qua, tôi đi thăm Hải một người bạn ở Melbourne  thuộc tiểu bang Florida, tôi rất mừng khi gặp lại anh, bạn tôi từ bên Đức sang thăm mẹ và các em cư ngụ tại đây. Tôi đến ở chơi với Hải trong condo của Huệ em Hải ngay sát mặt biển. Buổi chiều hôm ấy, hai người ngồi ngoài bancony nhâm nhi ly rượu mạnh ôn lại chuyện xưa, khi đưa mắt nhìn ra đại dương xanh lơ bát ngát, tôi mơ màng nhớ lại cuộc vượt biển của tôi từ Đà Nẵng về Sàigon cách đây hơn 41 năm, tôi đem câu chuyện kể lại cho Hải nghe, đang kể thì anh bảo tôi ngừng lại, rồi khuyên tôi nên viết hồi ký về cuộc vượt biển ly kỳ này. Sau khi trở về nhà tôi đã suy nghĩ trong nhiều ngày, cố moi lại trong trí nhớ những gì đã xẩy ra hơn 41 năm về trước, tôi quyết định viết hồi ký này.

Cuối tháng 3 năm 1975, sau khi Ban Mê Thuật thất thủ, tình hình chiến sự tại vùng 1 bắt đầu sôi động. Các Sư Đoàn 1,2,3; Lữ Đoàn Nhẩy Dù; Lữ Đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến ; các Liên Đoàn Biệt Động Quân; các Liên Đoàn Địa Phương Quân; các Tiểu Khu; Chi Khu; đều được báo động để chuẩn bị sẵn sàng đối đầu với quân đội chính quy Bắc Việt. Lúc ấy đơn vị tôi, Đại Đội 1/ Tiểu Đoàn 2/Trung Đoàn 57/ Sư Đoàn3 BB đang đóng quân hoạt động bên kia cầu Giao Thuỷ thuộc quận Đức Dục, tỉnh Quảng Nam, mặt trận tại đây tương đối nhẹ vì lực lượng Việt Cộng tại đây đa số là du kích địa phương.

Tôi còn nhớ rõ, hôm ấy là ngày 28 tháng 3 năm 1975, tôi đang đóng quân cùng Trung Đội 1 tại mấy căn nhà bỏ hoang, cạnh con đườngi độc nhất dẫn đến quận,thì vào khoảng 5 giờ sáng người lính mang máy truyền tin đánh thức tôi dậy, đưa ống lien hợp cho tôi rồi nói:

-Thiếu Úy Đại Đội trưởng muốn nói chuyện với ông

-Thanh Tâm, đây Thanh Tâm 1 tôi nghe.

(Thanh Tâm chỉ danh truyền tin của Đại Đội trưởng)

(Thanh Tâm 1 chỉ danh truyền tin của Đại Đội phó)

-Thanh Tâm 1, anh cho con cái gọn ghẽ, rồi Zulu về gặp gia đình ở Gama-Tango.

(Zulu: Rút quân, Gama-Tango: Giao Thủy, đây là những ám ngữ dùng trong truyền tin)

-Nhận được 5/5 Thanh Tâm.

Tôi cũng xin nói rõ về chỉ danh truyền tin trong nội bộ Tiểu Đoàn: Thanh Thúy là chỉ danh truyền tin của Tiểu Đoàn Trưởng; Thanh Hằng Tiểu Đoàn Phó; Thanh Tâm Đại Đội Trưởng Đại Đội 1; Thanh Nga Đại Đội Trưởng Đại Đội 2; Thanh Tuyền Đại Đội Trưởng Đại Đội 3; Thanh Vũ Đại Đội Trưởng Đại Đội 4; các Đại Đội Phó thêm số 1 vào chỉ danh của Đại Đội Trưởng, các Trung Đội Trưởng cũng có chỉ danh truyền tin riêng tùy theo từng Đại Đội.

Tôi ra lệnh cho Trung Đội di chuyển từng người một, với khoảng cách an toàn tối đa, vì tôi biết trước địch sẽ bắn sẻ và pháo kích vào chúng tôi. Trời vừa hừng đông, du kích từ những bụi cây sát bìa làng bên phải con lộ bắt đầu bắn sẻ chúng tôi. Đoành… đoành… tắc…tắc…tắc  tiếng súng CKC, súng trường báng đỏ, súng tiểu liên AK nổ khô khan từng hồi, thỉnh thoảng lại ầm… ầm  địch pháo kích thêm bằng súng cối 61 ly, nhưng không chính xác, nếu những ai đã từng kinh nghiệm bị bắn sẻ, sẽ thấu đáo được nỗi sợ ghê gớm này. Tuy nhiên ở một xạ trường khá xa, mục tiêu lại di động, và du kích không phải là những tay súng chuyên nghiệp nên chúng tôi vô sự, chỉ có một điều là Trung Đội nhận được lệnh Zulu gấp, nên chúng tôi không có dịp tác xạ phản công. Trên lộ trình tôi tình cờ nhặt được một cái áo giáp của đơn vị pháo binh đi trước vứt bỏ lại trên mặt đường, tôi vội mặc vào rồi tự nghĩ rằng: “mình sẽ được an toàn hơn”, nhưng thật nực cười, sau khi đi được một quãng, tôi lại cởi ra vứt bỏ nó, vì vừa nặng vừa nóng làm tôi khó chịu và đi chậm hẳn lại, lính trong Trung Đội đã vượt tôi khá xa, thôi thì đành phó thác số mạng cho ông trời, Xin Thượng Đế phù hộ chúng tôi.

Cầu Giao Thủy bắc ngang sông Thu Bồn là mục tiêu chính của cộng quân tại vùng này, các ông Địa (Địa Phương Quân) gác cầu cho chúng tôi biết địch pháo kích vào đây hàng ngày, với ý định phá hủy chiếc cầu này dể chặn đường chuyển quân và tiếp liệu của ta cho quận Đức Dục. Nhưng mãi cho đến ngày hôm nay, chúng vẫn chưa thực hiện được, đúng như lời cổ nhân nói: (Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên).

Tại địa điểm tập họp bên kia cầu, Đại Đội được Tiểu Đoàn điều động lên bốn chiếc GMC nhà binh ở giữa một đoàn xe quân vận, gồm mấy chục chiếc có lẽ dùng để di chuyển cả Trung Đoàn và Tiểu Đoàn pháo binh cơ hữu mà tôi không nhớ rõ. Tôi chỉ còn nhớ xe trước xe tôi là của pháo binh, có kéo theo một khẩu đại bác 105 ly. Đoàn xe vừa lăn bánh, du kích cũng bắt đầu bắn xối xả từ hai bên đường. Tiếng súng đủ loại nổ vang rền như pháo Tết nhắm vào đoàn xe, nghe tiếng đạn xoáy đi trong không khí khiến tôi thấy rợn tóc gáy. Tài xế đạp lút chân ga, chiếc xe gầm lên như con thú dữ bị thương, và phóng như bay, như muốn tránh khỏi cơn mưa đạn của địch trên con đường đầy ổ gà và bụi đất, các binh sĩ ở hai bên hông trong xe cố gắng tác xạ phản công. Bỗng một viên đạn lọt qua thành xe kết liễu mạng sống của Văn, hiệu thính viên của Đại Đội, tội nghiệp cho Văn, đáng lẽ anh phải đi theo Đại Đội Truởng, không biết tại sao lại đi cùng chúng tôi nên bị tử thương, đúng là số mạng, trời kêu ai nấy dạ.

Đột nhiên một tiếng nổ lớn ở phía trước, du kích xử dụng B40 bắn vào đoàn xe, chiếc xe trước tôi hai xe thình lình xoay ngang chắn một phần con đường, không biết vì xe trúng đạn, hay vì tài xế sợ quá nên lạc tay lái. Đoàn xe phải dừng lại, binh lính nhẩy xuống như ong vỡ tổ, họ nằm dọc theo bờ ruộng để tránh đạn và bắn trả về phía địch. Tôi nhìn về phía bên trái con đường, thấy Thiếu Úy Thạch Đại Đội Trưởng đang dẫn toán xung kích xông vào bìa làng, tiếng súng M16, M79 xen lẫn với Ak nổ ròn rã. Phía bên tôi địch bắn tiếp hai quả B40 nhưng không trúng mục tiêu, đạn bay qua đầu nổ tung trên đám ruộng khô bên kia con đường, đang trong tình trạng tiến thối lưỡng nan, một Trung Úy pháo binh và hai pháo thủ trên xe phía trước đã xử dụng khẩu đại bác 105 ly tác xạ thẳng vào làng, đây là lần đầu tiên tôi chứng kiến pháo binh trực xạ, vì trực xạ nên tầm đạn ngắn tiếng nổ thật kinh hoàng và chính xác, địch đã im tiếng súng, chắc chắn chúng đã về chầu bác.

Trung Đội phải đi bộ một đoạn đường ngắn, khi đi qua nơi pháo binh vừa trực xạ, tôi nghe có tiếng kêu: Ai đó cứu tôi với.

Binh lính không ai dám vào, vì một phần trời đã tối, một phần không biết là bạn hay địch, và cũng thể đó bẫy của du kích để dụ quân ta vào. Nếu anh thuộc đơn vị bạn, xin anh thông cảm và tha lỗi cho chúng tôi, chiến tranh đã tạo cho con người trở thành đầy đa nghi và bất nhân. Đơn vị chúng tôi về đến quận Đại Lộc và đóng quân nghỉ chân tại đây, tương đối chúng tôi được một đêm yên tĩnh.

5 giờ sáng ngày 29 đoàn quân rời bỏ quận Đại Lộc di tản về Đà Nẵng, Trên đường đi thật ồn ào và vô trật tự, dân chúng già trẻ, lớn bé thất thểu gồng gánh đủ mọi thứ đi theo những đơn vị Địa Phương Quân, Nghĩa quân. Trong đám quân dân hỗn loạn này, tôi chợt thấy Đại Tá Vinh Trung Đoàn trưởng Trung Đoàn 57 cùng một số sĩ quan tham mưu tháp tùng ông, sắc mặt ông trông thật ưu tư, chỉ có một điều lạ là hôm nay địch không bắn quấy phá và pháo kích chúng tôi nhiều như ngày hôm qua.

Tôi không nhớ rõ thời gian đi là bao lâu, nhưng khi ra tới Quốc Lộ 1 thì trời đã xế trưa, Đại Đội hoàn toàn bị tản lạc, bây giờ chỉ còn lại tôi, Trung Sĩ Sơn và binh nhì Thảo, chúng tôi chưa biết phải đi đâu và trong lúc bối rối, thì tình cờ gặp Trung Úy Phước Đại Đội trưởng Đại Đội chỉ huy, Thiếu Úy Sáu ban hai Tiểu Đoàn, Chuẩn Úy Bê Đại Đội 4. Mọi người gặp nhau tay bắt mặt mừng, bất ngờ trong lúc ấy Trung Úy Phước trông thấy chiếc GMC của Tiểu Đoàn chạy ngang, ông vẫy tay  ra dấu, may quá tài xế nhận ra ông nên cho xe dừng lại, mọi người cùng leo lên. Trong lòng xe tôi đã cởi bỏ chiếc áo đang mặc, bây giờ trên người tôi chỉ còn chiếc áo thun, quần lính và đôi giầy đi trận, tôi lại may mắn tìm được một hộp trái đào trong phần ration C của Mỹ, mùi thơm trái đào và vị ngọt của đường làm tôi tỉnh táo hơn. Tài Xế đưa chúng tôi đến nhà Đại Úy Nguyễn Thanh Nhạc, Tiểu Đoàn Trưởng, Đại Úy Nhạc cho biết ông sẽ ở lại Đà Nẵng, Trung Úy Phước quyết định ở lại với ông, còn lại 5 người chúng tôi, ông cho tài xế đưa ra bãi biển Sơn Chà. Khi xe chạy ngang Tổng Y Viện Duy Tân, lòng tôi bỗng trùng xuống, khi thấy những thương binh nhẹ, đang cố gắng chen lấn nhau để tìm đường ra bãi biển trông thật thảm hại và đáng thương. Tôi hy vọng trong số thương binh này không có người bạn cùng khóa, Thiếu Úy Nguyễn Hữu Thịnh đã điều trị tại đây mấy tháng trước, những người bị thương nặng còn nằm lại, thật tội nghiệp cho họ, họ đã bị bỏ rơi, chắc chắn giờ này không còn ai ở lại chăm sóc cho họ nữa, xe ngừng lại ở bãi biển Sơn Chà, Chuẩn Úy Bê đổi ý theo xe trở về Đà Nẵng.

Vừa bước xuống xe, trước mắt tôi một cảnh tượng hỗn loạn, kinh hoàng khiến tôi vô cùng thất vọng nản chí, sờn lòng, bờ biển tràn ngập người đông như một đám kiến đói bu quanh cục đường. Cách bờ một khoảng khá xa một chiếc xà lan đầy nghẹt lính và dân dưới ánh nắng gay gắt, nóng bỏng của mặt trời mùa hè, họ đã chịu đựng mọi gian khổ, quên cả tính mạng đang bị nguy hiểm bởi đạn pháo kích của Việt Cộng, họ chỉ hy vọng được tàu Hải Quân vào kéo ra, để thoát khỏi một thành phố bị bỏ rơi với đầy cướp bóc, đe dọa và hận thù. Tuy vậy từ trong bờ vẫn có nhiều người cố liều bơi ra xà lan, đa số là lính.

Tôi đứng lớ ngớ nhìn một xác chết cháy đen vì đạn pháo kích, thì mấy người kia bỏ đi đâu mất, tôi vội vàng đi tìm họ, trong lúc lang thang trong đám đông, tình cờ tôi gặp một bác gái người Huế cùng ba người con, hai trai, một gái, người anh cả là một Thiếu Úy Địa Phương Quân (không nhớ tên), tôi ngồi xuống làm quen và được bác cho một bát cơm nguội cùng ít ruốc khô, một bát cơm mà tôi không bao giờ quên. Bác cho biết gia đình bác từ Huế vào để tìm đường về Nha Trang, vì bác có người em là Trung Tá ở đó, tôi có hứa với bác sẽ cùng các con bác tìm cách đưa gia đình về Nha Trang.

Ở sát cạnh bờ biển có một bến cảng, có lẽ để những tàu buôn nhỏ đến xuống hàng hoá, tại đây tương đối ít người hơn, nên tôi và anh Thiếu Úy mới quen đã gặp lại Thảo và Thiếu Úy Sáu. Chúng tôi đang mừng rỡ nói chuyện với nhau, thì thình lình một chiếc tàu nhỏ chạy ngang, Thảo bắn vội vài phát súng chỉ thiên ra lệnh cho tàu vào sát bờ, rồi cùng Thiếu Úy Sáu và một quân nhân nữa nhẩy xuống. Tôi chưa có quyết định gì thì tàu quay trở lại, tôi nghe tiếng Thảo hối thúc:

-Nhẩy xuống mau Thiếu Úy.

Không còn lựa chọn nào hơn, tôi cùng anh bạn mới quen liều mạng nhẩy xuống, cũng may là từ bờ thành trên bến cảng xuống tàu khá cao, nên nhiều người đứng đó không dám nhẩy theo, thử tưởng tượng mọi người cùng nhẩy xuống chiếc tàu chắc chắn sẽ chìm, thật hú vía. Tàu vội vàng chở chúng tôi ra xa bờ, tuy tàu nhỏ, nhưng phòng lái trong phòng tàu có thể chứa khoảng được hơn mười người, ông chủ tàu (không nhớ tên, xin gọi là bác Hai) cho biết, tàu này không vượt biển được, rồi đưa chúng tôi tới chiếc xà lan neo gần đó. Thảo và Thiếu Úy Sáu vội vàng leo lên, nhìn tình trạng vô hy vọng và cảnh chen chúc hỗn độn trên xà lan, tôi thấy ớn xương sống nên quyết định ở lại tàu, không biết sau này số phận của chiếc xà lan ra sao, cầu xin Thượng Đế cứu vớt họ.

Gia đình bác Hai ngoài hai vợ chồng còn hai cô con gái, cô chị đang mang thai, bác Hai cho tôi biết gia đình bác ở Đà Nẵng, bác chở gia đình ra xa bờ để tránh pháo kích, tối nay bác sẽ trở vào bờ để về nhà. Tôi nói với bác hai: Tôi là quân nhân không thể vào bờ được, từ giờ phút này bác phải theo lệnh tôi, nếu không tôi sẽ dùng võ lực. Bác Hai thấy tôi còn khẩu M16 nên không chống đối, anh Thiếu Úy mới quen cũng đồng ý và anh cũng không quên nhắc lại lời hứa của tôi, thật là há miệng mắc quai, chỉ vì một lúc hứng chí, một lời hứa xuông mà bây giờ tôi không biết xử sự ra sao? Tôi bỗng nghĩ ra một ý kiến, tôi hỏi anh:

-Anh có biết bơi không?

Anh trả lời:

-Tôi biết, nhưng không bơi xa được.

Tôi chỉ cho anh một bờ đá nhô ra ở tận cuối bến rồi nói:

-Tôi sẽ cho tàu vào gần bờ, anh bơi vào đưa gia đình đến đó, chúng tôi sẽ đến đón.

Anh còn đang đắn đo do dự thì trời giúp anh, một chiếc ghe nhỏ trên có hai mẹ con đương chèo hướng vào bờ, chúng tôi cho tàu chạy theo rồi nhờ chị đưa anh vào, khi anh đưa gia đình đến đó, chúng tôi đã đưa tàu vào đón gia đình anh cùng Trung Sĩ Sơn mà không gặp trở ngại nào. Trời bắt đầu về chiều, Việt Cộng cũng bớt pháo kích, chắc chúng đã hết đạn, hay vì trời sắp tối, nên chúng muốn để dành tới ngày mai. Chúng tôi chưa có quyết định gì, thì bỗng lúc ấy trên mặt biển có một đoàn chiến hạm đang xuôi về Nam, đèn chiếu sáng một góc trời. Tôi ra lệnh bác Hai cho tàu chạy theo tới đâu hay tới đó, đang chạy được một khoảng ngắn, thì một chiếc ghe máy xả hết tốc lực đuổi theo, trên ghe có một người đàn ông đang kêu chúng tôi, chúng tôi dừng lại cho anh lên, thì ra anh là một Quân Cảnh con rể của bác Hai. Tôi thầm nghĩ: “anh này thật may mắn”, cũng xin nói thêm là bác Hai có mang theo gạo và nước uống dự trữ, nên cũng tạm thời cho mọi người tạm thời qua ngày.

Đêm hôm đó, tất cả thay phiên nhau giữ tay lái đi theo đoàn chiến hạm, vì như thế chắc chắn sẽ không bị lạc hướng, chúng tôi đi theo cho đến khi không còn thấy ánh đèn nữa. Chung quanh bây giờ tối đen như mực, bác Hai tắt máy để tiết kiệm nhiên liệu, con tàu trôi bồng bềnh không định hướng, trong màn đêm giữa đại dương bao la, tiếng sóng đập nhẹ vào thân tàu, gió biển hiu hiu mát, cùng với sự mệt mỏi rã rời của thể xác sau hơn hai ngày căng thăng và thiếu ngủ, tôi đã chìm sâu vào giấc ngủ lúc nào không biết.

Đang say sưa mơ màng trong giấc điệp, thì bác Hai đánh thức tôi dậy, trời vừa tờ mờ sáng. Bác nhìn tôi trong nỗi tuyệt vọng và giọng bác run run:

-Chúng ta bị lạc giữa biển rồi Thiếu Úy ơi.

Tôi nhìn ra ngoài, chỉ thấy đại dương bát ngát một mầu xanh, một màu xanh biển thật đẹp nhưng trong đó lảng vảng bóng tử thần, vì nếu đã bị lạc trên biển con tàu sẽ trôi mãi, cho đến khi hết thức ăn và nước uống, lúc đó chắc chắn tất cả không ai thoát được cái chết. Tôi suy nghĩ một lúc rồi nói với bác Hai:

-Bác hãy bình tĩnh đừng quá lo, chờ lúc mặt trời lên tôi sẽ định lại phương hướng.

Đang ngồi trầm lặng cố nhớ lại phương hướng trên bản đồ, thì bất chợt tôi bỗng nhớ lại quy luật quốc tế về bản đồ, khi nhìn bất cứ bản đồ nào, trước mặt sẽ là hướng Bắc; sau lưng hướng Nam; tay phải hướng Đông; tay trái hướng Tây, nếu áp dụng quy luật này vào bản đồ nước Việt Nam, chắc chắn hướng Tây sẽ là bờ. Đợi khi mặt trời vừa ló dạng, tôi nói với bác Hai cho tàu chạy ngược hướng mặt trời, đúng như tôi dự đoán, chỉ một lúc sau chúng tôi đã thấy bờ, bây giờ lấy hướng Đông làm chuẩn, chúng tôi cho tàu chạy song song với bờ biển về hướng Nam. Trên đường tàu gặp một ghe đánh cá, người đàn ông trên ghe cho biết nơi đây thuộc hải phận tỉnh Quảng Tín và khuyên chúng tôi đừng vào bờ, vì tỉnh Quảng Tín đã bị Việt cộng chiếm, như vậy cả đêm hôm qua tàu chỉ vượt được một khoảng đường ngắn, vì Quảng Tín – Đà Nẵng cách nhau không xa.

Hôm nay là ngày 29 tháng 3, con tàu tiếp tục đi mặc dù không biết còn đi được đến đâu, vì dầu cặn chạy máy tàu sắp hết, ngày sắp tàn, hoàng hôn bắt đầu buông xuống, giữa biển cả bao la bát ngát, bây giờ chỉ còn con tàu nhỏ lênh đênh trong cô đơn và tuyệt vọng. Nhưng cám ơn trời, bỗng ở đâu một chiếc tàu đánh cá chạy ngang qua, tôi vội nổ mấy phát súng chỉ thiên và ra lệnh cho tàu ngừng lại, trên có hai em nhỏ chừng mười lăm mười sáu tuổi nhà ở Qui Nhơn, hai em cho biết Qui Nhơn cũng đã thất thủ, hai em định mang tàu vào Đà Nẵng chở dân tỵ nạn kiếm tiền. Chúng tôi liền khuyên các em không nên đi, vì khi vào Đà Nẵng các em sẽ bị cướp tàu, khi thấy trên tàu có phuy dầu cặn, bác Hai đề nghị mua lại và hỏi đường về Nha Trang, các em giúp bác Hai chuyển dầu sang tàu và một em tình nguyện đưa chúng tôi về Nha Trang vì em có địa bàn đi biển ban đêm, với điều kiện khi tới cho em tiền để mua vé xe đò trở lại Qui Nhơn. Em hướng dẫn chúng tôi đến cù lao Hòn, tình hình trên cù lao (một đảo nhỏ giữa biển) vẫn yên tĩnh, nên chúng tôi được ngủ một đêm bình yên tại đây. Buổi sáng ngày 30 trước khi tiếp tục cuộc hành trình về Nha Trang, chúng tôi thong thả lên bờ vào một quán nhỏ, uống ly cà phê ăn bát mì gói, thật là thần tiên.

Tối ngày 31 tháng 3, sau gần hai ngày khởi đi từ cù lao Hòn, tầu đã đến hải cảng Nha Trang, vừa lên bờ, chúng tôi đã không cầm được nước mắt, đã đau lòng và xót xa khi nhìn thấy cảnh hàng trăm xác chết nằm chồng chất bừa bãi lên nhau, đa số là trẻ em bị chết khát, hay chết vì bị thương trên các xà lan từ Huế, Đà Nẵng vào được vứt xuống tại đây, có những xác đã rữa nát, ruồi bu ròi đục, mùi hôi thối làm ngộp thở và buồn nôn, chiến tranh thật tàn ác, tội nghiệp cho những nạn nhân vô tội này cùng gia đình của họ. Sau khi chia tay, anh Thiếu Úy Địa Phương Quân rất điệu nghệ, dúi vào tay tôi 1000 đồng  rồi hứa sẽ nhờ ông cậu kiếm dầu giúp cho chúng tôi, dĩ nhiên tôi chẳng hy vọng gì vào lời hứa này, nhưng tôi  không quên nói lời cám ơn. Tất cả mọi người lên bờ, gia đình bác Hai đã đãi chúng tôi một bữa cơm tại một quán ăn gần đó, sau hơn ba ngày chỉ có cơm trắng và nước lạnh cầm hơi, tôi đã được ăn một bữa cơm ngon nhất trong đời, sau đó lại còn được tắm gội sạch sẽ, thật là không còn gì hạnh phúc hơn. Lúc trở lại tàu Trung Sĩ Sơn lấy cắp được một chiếc ghe nhỏ, âm thầm một mình chèo ra một chiến hạm đậu gần đó, cho đến ngày hôm nay khi ngồi viết hồi ký này, tôi cũng không hiểu tại sao bác Hai không dùng tàu chạy ra chiến hạm như Trung Sĩ Sơn đã làm.

Buổi sáng ngày 1 tháng 4, chúng tôi ra quán uống cà phê, đồng thời nghe ngóng tình hình, khi trở về thì thấy có rất đông người đổ xô đến đây, đa số trong tình trạng hoang mang lẫn sợ hãi, khi nghe tin thành phố Nha Trang bị bỏ rơi, họ chen lấn la hét ồn ào, ai ai cũng muốn được vào trong bến. Chúng tôi phải cố gắng len lỏi mãi mới vào đến cổng, Quân Cảnh canh gác tại cổng được lệnh cấm không cho bất cứ ai vào, nhưng họ biết chúng tôi từ vùng 1 đến đây đêm hôm qua, nên họ không làm khó dễ, thật là may mắn.

Bây giờ toán người khởi thủy lên tàu ngày 29 tháng 3 chỉ còn lại tôi, một quân nhân (không nhớ tên) và gia đình bác Hai. Bác Hai còn đang suy nghĩ và chưa có quyết định gì, bất chợt xuất hiện một chiếc tàu buôn kéo hai xà lan đầy người vào bến, một người đàn ông đi lên hỏi thăm tin tức trong bến, chúng tôi cho ông biết hải cảng đã bị phong tỏa. Khi thấy bác Hai có chiếc tàu nhỏ, ông nói, ông là chủ chiếc tàu buôn và đề nghị sẽ kéo chúng tôi về Vũng tàu với một điều kiện, sẽ xử dụng tàu của bác làm phương tiện chuyển nước cho hai xà lan. Chúng tôi mừng quá, giống như người sắp chết đuối gặp được chiếc phao, đây đúng là Thượng Đế đã an bài. Đoàn tàu rời Nha Trang trực chỉ hướng về Vũng Tàu, trên đường đi mặc dù đã rất nhiều lần chúng tôi giúp chuyển nước, nhưng không đủ vì hai xà lan quá đông người, vì thế chúng tôi đã được chứng kiến cảnh lấy nước can đảm chưa từng thấy, những thanh niên gày gò trên mỗi vai mang một bọc nylon khá lớn, dùng cả hai tay hai chân bám chặt vào sợi giây cáp nối liền xà lan với tàu rồi từ từ đu xuống, khi mang nước về thì thật là một cố gắng vượt ngoài sức tưởng tượng. Bây giờ họ phải dùng hết sức để leo ngược lên trông thật đáng thương và nguy hiểm vì những bao nylon nước nặng trĩu trên vai, nhất là những người ở xà lan thứ nhì, họ phải xuống và trở về gấp đôi đoạn đường, nếu ai sơ ý tuột tay hoặc đuối sức bị rơi xuống biển, chắc chắn sẽ không có cách gì cứu được, và sẽ bị vùi xác dưới đại dương sâu thẳm, đến xế chiều biển bắt đầu động mạnh, đoàn tàu phải tạt vào vịnh Cam Ranh để tránh bão và nghỉ đêm tại đây.

Ngày 2 tháng 4, đoàn tàu rời vịnh Cam Ranh, nhưng bây giờ chỉ còn lại một chiếc xà lan, chiếc thứ nhì đêm hôm qua đã trôi đâu mất, vì biển động làm sóng lớn nên giây cáp bị đứt, chúng tôi thấy xót xa cho số phận không may của những người trên chiếc xà lan xấu số này, cầu xin bề trên phù hộ cho họ được bình an. Trên đường về Vũng Tàu trời nổi cơn bão lớn, biển động mạnh hơn, từng cơn cuồng phong mang những đợt sóng lớn, đập vào tàu như muốn nhận chìm con tàu nhỏ bé, đáng thương vào lòng đại dương, đang trong tình trạng tuyệt vọng chờ chết, thì phép lạ đã đến, một thương thuyền khổng lồ (không nhớ tên) từ hải ngoại về ngang qua đã cứu đoàn tàu và chúng tôi.

Buổi sáng ngày 3 tháng 4, 1975 chúng tôi đến bãi sau Vũng Tàu, tất cả các tàu bè, chiến hạm đều được lệnh chính phủ tạm neo ngoài khơi chờ lệnh. Hôm nay trời quang đãng, biển trong xanh trông thật đẹp, tôi đến từ giã gia đình Bác Hai, rồi men theo cầu thang bên thành tàu xuống gần mặt biển, tại đây có những ghe nhỏ đưa vào bờ với giá hai trăm đồng một người. Lên bờ tôi đón xe lam về thị xã, trước khi vào phải qua trạm kiểm soát của Tiểu Khu, khi biết tôi di tản từ vùng 1 về họ để tôi đi tự do, nhưng không cho mang vũ khí vào tỉnh, nên tôi phải để lại khẩu M16. Tôi vào chợ Vũng Tàu ăn một bữa cơm canh chua cá biển thật ngon, rồi ra bến xe đò mua vé về Sàigon.

Tại xa cảng xa lộ Biên Hòa, tất cả các quân nhân di tản đều được đưa lên những chiếc GMC đương đợi sẵn, xe vừa đầy là tài xế lăn bánh trực chỉ về Quân Vụ Thị Trấn ở đường Lê Văn Duyệt. khi đến ngã tư Hiền Vương, Hai Bà Trưng xe phải dừng lại chờ đèn xanh, nhân cơ hội bằng vàng này, tôi vội nhẩy xuống xe và chạy nhanh qua bên kia đường. Sau bẩy ngày lênh đênh trên đại dương, từ bãi biển Sơn Chà ngoài Đa Nẵng về tới Vũng Tàu với bao niềm lo âu cùng những nguy hiểm của bão tố, tôi đã gặp thật nhiều may mắn và bao nhiêu phép lạ, cuối cùng tôi đã trở về nhà bình an vào buổi chiều ngày 3 tháng 4 năm 75, xin cám ơn Thượng Đế.

Viết xong ngày 16 tháng 9 năm 2016

                          Hồng Vũ K5/72

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                                                                           

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
18 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 19773)
"Và từ đó chúng tui đi nhà thờ mỗi Chủ Nhật. Cám ơn Chúa . Cầu nguyện cho Má mau hết bệnh. Cầu nguyện cho mấy chị em có công ăn việc làm. Các cô chú trong nhà thờ đối xử rất tốt với tui ,không ai nhìn màu da tui mà khinh khi hết.Tui vui lắm khi mọi người cứ kêu "Amy, đến phụ cô làm cái này đi ! Amy, ăn chút gì cho có sức rồi hẵn làm chứ cháu
18 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 19434)
Vợ tôi thường tuyên bố chắc nịch, "không con mèo nào lại chê mỡ". Tôi cũng là một con mèo háu đói, nhưng những miếng mỡ chung quanh đều do vợ dăng bẩy. Ngu gì mà mắc bẫy. Cái tiền lệ của ngày hẹn hò đầu tiên tôi đã vượt qua dễ dàng, nhưng lúc đó khác, bây giờ khác. Đã biết mỡ heo ngon tự nhiên cũng tò mò muốn nếm mỡ gà, mỡ bò... Tò mò chút thôi, chớ ngu gì mà bỏ nhà đi làm mèo hoang! Thỉnh thoảng tôi làm mèo hoang trong mơ mà thôi.
17 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 22300)
Mỗi khi gặp gỡ một ánh mắt nhìn thân thiện, tôi luôn cảm thấy như được sưởi ấm. Và tôi tin rằng ai cũng có cùng một cảm nhận tương tự từ những cử chỉ thân ái nhỏ nhặt từ người khác. Thực tình mà nói, ngọn nến không khó để thắp lên, vấn đề là tôi có đủ can đảm bỏ bớt thì giờ dành riêng cho mình để bước ra hòa mình và chia sẻ với người khác hay không. Một Lễ Giáng Sinh trọn vẹn không thể không có thật nhiều những ngọn nến yêu thương như thế.
15 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 26018)
Xanh luôn luôn là một con người đáng ngưỡng phục. Và giờ đây anh còn là một công dân Mỹ đáng quý. Tôi cám ơn trời đã cho tôi gặp được một người bạn như Xanh
14 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 20210)
Đêm đã sâu hơn, ngồi chong mắt lên màn hình vi tính, quê hương thu về một cõi lòng đau đáu, kịp nhận ra còn có những anh em đang “lẻ loi như cây rừng đông, từng phen chết trong bão bùng,” mà vẫn dìu nhau qua hết những con đường đi tìm lại chút hơi người.
12 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 23592)
Làm người lương thiện ở Việt Nam khó hơn làm tiến sĩ cả vạn lần. 100 người bảo vệ luận án tiến sĩ hầu như đạt cả 100. Nhưng 100 thằng tù mà trở về xã hội, may lắm chỉ có 1 hay 2 thằng trở thành người tử tế, nghĩa là tìm công việc tử tế sống cuộc đời lương thiện đến cuối đời.
07 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 23843)
Người miền Nam có câu nói ám chỉ một sự việc xa vời, vô định, vô vọng và chìm sâu vào tuyệt vọng: “Mút chỉ cà tha”. Những tưởng học tập cải tạo 10 ngày để rồi trở về với cuộc sống bình thường hàng ngày, ai ngờ đã qua 10 ngày mà vẫn thấy chưa học tập được một chữ nào! Thế cho nên chúng tôi bảo nhau: “Kiểu này học tập... mút chỉ cà tha!”
06 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 20163)
Tao phải đề nghị cái thằng viết bức thông cáo kêu gọi quân nhân “ngụy” đi trình diện học tập cải tạo sau ngày 30/4/75 được lãnh giải Nobel về văn chương láu cá
06 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 21729)
thực trạng xã hội diễn ra hằng ngày và cũng là cách để anh sống với chính mình.Bùi Trung Việt nói: “Tự do, đó là thứ tôi đang có được, bởi tôi đi bán khoai lang chứ không phải đang ngồi trong Luật Sư Đoàn!”
30 Tháng Mười Một 2011(Xem: 19359)
tôi cũng sẽ đặt một cái cân và cây thước trước cửa nhà.Tôi sẽ tiếp nối công việc của cha,tôi cũng sẽ là người cân đo tội ác và thời gian của cộng sản Việt Nam./.
30 Tháng Mười Một 2011(Xem: 20931)
Tất cả là duyên, là nghiệp hay nói nôm na là cái số. Phật ở trong tâm của ta. Phật ở trong tất cả hành động sinh hoạt hàng ngày. Phật ở tất cả mọi nơi. Điều quan trọng nhất là tâm hồn phải vị tha, luôn thành tâm hướng thiện. Mọi việc đã có tạo hóa an bài…
26 Tháng Mười Một 2011(Xem: 18883)
Đối với người tị nạn Việt Nam, có lẽ chưa có câu chuyện nào cảm động bằng cuộc hội ngộ của hai cha con ông Trương Văn Hào, sau 34 năm xa cách. Khi biết tin, phóng viên nhật báo Người Việt đã liên lạc được với ông Hào và được ông kể lại câu chuyện sau đây. Nhân ngày Lễ Tạ Ơn năm nay, nhật báo Người Việt đăng câu chuyện này để độc giả cùng suy ngẫm.
24 Tháng Mười Một 2011(Xem: 18728)
bởi lỡ mai này, những người thương của chúng ta không còn nữa, thì ngày Lễ Tạ Ơn sẽ có còn ý nghĩa gì không? Xin cho tôi được một lần, nói lời Tạ Ơn: Cám ơn lắm, cuộc đời này.
21 Tháng Mười Một 2011(Xem: 20343)
Một câu chuyện thật xót xa ... Cô gái lái xe đã hành động đúng : Trả cho mọi người trong xe cái mà họ đáng được : Đến chỗ...Không có loài người , nơi chỉ tồn tại những linh hồn "không có trái tim" !!
20 Tháng Mười Một 2011(Xem: 20369)
người nghệ sĩ mà chúng tôi muốn nói đến trong bài viết này là một thiếu nữ Việt Nam trẻ đẹp, sinh ra và lớn lên ở Hoa Kỳ sau 1975 trong một gia đình tỵ nạn, từng làm nghề đánh cá ở một làng chài lưới tại Quảng Ngãi trước tháng Tư 1975
17 Tháng Mười Một 2011(Xem: 20329)
Không còn lầm được. Không còn ảo tưởng:"Đã trốn trại, còn đang ẩn trốn tại một nơi nào." Tôi mất anh thật rồi! Thế là hết. Tôi khóc nức lên. Trời như nổi gió. Cỏ cây chao đảo. Đồi núi quay cuồng. Quanh tôi cảnh vật mờ đi...
11 Tháng Mười Một 2011(Xem: 18637)
Chuyện cây cầu treo năm ấy là bài học quí giá dạy cho con người đức tính khiêm cung, biết được thân phận nhỏ nhoi của mình có nghĩa lý gì đâu, so cái lớn lao vô cùng trời đất.
28 Tháng Mười 2011(Xem: 19154)
Người lính Trạch Gầm cũng có vài ba mối tình, cũng có lúc “khi lính đã yêu rừng tàn núi lở”. Nhưng , từ cổ chí kim ,tôi chưa thấy ai “mày tao” với người tình như ông thi sĩ lính này.
28 Tháng Mười 2011(Xem: 17856)
Vẫn tấm bảng đó,nhưng hàng chữ đã đổi khác “Ủy Ban Nhân Dân Huyện Giáo Đức”. Cột cờ giữa sân vẫn còn đó, nhưng lá cờ vàng ba sọc đỏ bay phất phới ngày nào không còn nữa mà đã bị thay thế bằng một lá cờ khác
26 Tháng Mười 2011(Xem: 19694)
Hỡi ơi ! Người đàn bà tài hoa ấy có lẽ cũng đã nhận ra rằng : Tài và sắc vốn là một mối lụy của kiếp nhân sinh. Cho nên mới không làm thơ nữa. Để làm vợ -một người vợ bình thường như mọi người vợ khác.
18 Tháng Mười 2011(Xem: 19471)
Thời gian trôi theo sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật . Nguời ta đã chế tạo ra nhiều thứ. . . . kể cả nguời máy , nhưng có một thứ họ không chế tạo được là trái tim người mẹ
17 Tháng Mười 2011(Xem: 21272)
Nhưng hôm nay , ở cái tuổi không còn trẻ nữa , khi mái tóc không còn xanh nữa , sau những vật chất phù hoa tôi đã nếm biết bao vị đắng , trải qua bao phũ phàng của tình nghĩa vợ chồng .
08 Tháng Mười 2011(Xem: 23806)
Hôm nay, hít thở không khí tự do nơi đất nước tạm dung, hồi tưởng lại quá khứ, chiến trường Phước Long, kiếp lưu đầy tù tội nơi lam sơn chướng khí Việt Bắc, những ngày đói khát không có lấy một chén cơm cho đủ no để chống với cái lạnh cắt da, cô đơn không người thăm hỏi, và biết bao muôn vàn những cay đắng tủi hờn trút đổ thù hận trên người chiến sĩ Quốc Gia sa cơ thất thế.
05 Tháng Mười 2011(Xem: 20772)
Và còn nữa, ngồi để nhìn cho rõ cái cô đơn trống vắng của tuổi hoàng hôn trong bước lưu đày. Mầy biết không, có ông tráng sĩ nào đó ngửa mặt lên trời than “ Ôi thời oanh liệt nay còn đâu “ thì được đấng phu quân an ủi ngay “ Oanh không có, nhưng có liệt !”
25 Tháng Chín 2011(Xem: 20354)
Chinh chiến đã tàn, Việt kiều vượt biển vượt sông. Việt cộng thắng Tây thắng Mỹ. Liệu chữ “Việt” chung nhau ấy có đủ lấp nổi giòng Bến Hải li ti ở trong tâm mỗi người tự nhận là người Việt?
15 Tháng Chín 2011(Xem: 18834)
Tháng chín gió Thu bắt đầu thổi lạnh. Buổi sáng ra sau vườn, vợ tôi nhắc tôi phải khoát thêm chiếc áo ấm để phòng cái thân đang... về già. Sau hè nhà tôi có trồng một hàng phong rậm lá. Sáng nay, nhìn những chiếc lá thu mới úa, chưa vàng run rẫy trong gió sớm làm tôi nhớ những mùa thu đã đi qua ở bên nhà.
12 Tháng Chín 2011(Xem: 21074)
Tôi yêu đất nước này nhưng ở trong một sự so sánh tôi vẫn chưa hiểu biết hết tận tường ân sủng này như thế nào. Cảm xúc, tạ ơn, tình yêu của gia đình người tị nạn này
10 Tháng Chín 2011(Xem: 20690)
Ông nội hy vọng rằng, môt ngày nào đó sẽ được gặp cháu. Nếu mẹ cháu nghĩ lại và muốn tiếp xúc với ông nội, hãy gọi điện thọai nhắn tin với Tòa báo Việt Luận, rất gần nơi cháu đang ở. Ông nội đang mong tin cháu.
06 Tháng Chín 2011(Xem: 19630)
Nhưng dầu là cách nào, tôi thực sự cũng cám ơn cơ duyên này. Vì nhờ đó mà tôi có được một tri âm trong phần đời còn lại của mình, trên thế gian này, giữa dòng đời xa lạ hôm nay.
04 Tháng Chín 2011(Xem: 23587)
Cuối cùng rồi thì người tốt kẻ xấu, người ngay kẻ gian cũng phải ra đi, nhưng không phải cái chết nào cũng giống cái chết nào, thiên đàng, địa ngục không ở cùng một nơi.
17 Tháng Tám 2011(Xem: 21374)
Sáng mai tôi lại lên lớp giảng về truyện Kiều. Kìa tại sao những dòng chữ trên giáo án mờ dần, mờ dần... Một giọt nước mắt nóng hổi không cầm được của tôi đã rơi xuống, đọng lại và thấm sâu vào trang giấy trắng.
14 Tháng Tám 2011(Xem: 18580)
Nhân dịp lễ Vu Lan, xin mời các bạn nghe nỗi lòng của một người con khi phải đưa mẹ vào Viện dưỡng lão. Trong tương lai một ngày gần đây, rồi cũng sẽ đến lượt chúng ta phải vô viện dưỡng lão, xin đừng trách con cái nếu là trường hợp vạn bất đắc dĩ , bởi vì chúng nó cũng đau lòng lắm nhưng không thể làm khác hơn được, nhưng miễn là đứa con không quên bổn phận thăm nuôi những ngày sau đó..
03 Tháng Tám 2011(Xem: 19713)
để ông được làm: MỘT MỘ PHẦN BÊN NGÀN CHIẾN HỮU CỦA TÔI. NGƯỜI VIỆT CỦA TÔI, NGƯỜI TƯỚNG LÃNH CỦA QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA CỦA TÔI LÀ THẾ ĐẤY.
02 Tháng Tám 2011(Xem: 20693)
Biết lấy gì để đền đáp công ơn anh đây? - Người anh em của tôi ơi, tôi mới phải là người cảm ơn anh. Chính anh đã cho tôi hạnh phúc lớn lao. Chính anh đã giúp tôi thoát khỏi cái con vợ yêu tinh của tôi đấy!
28 Tháng Bảy 2011(Xem: 19386)
“Học vấn không phải là vấn đề không quan trọng trong cuộc sống vợ chồng, nhưng điều quan trọng nhất đối với Hòa, đó là tình yêu thương lẫn nhau; vì nếu không thật sự yêu thương, thì không thể vượt qua được những chướng ngại của cuộc sống
26 Tháng Bảy 2011(Xem: 18795)
Vậy mà hôm tao phải liệng súng đầu hàng vào cuối tháng tư 75, tao nghe đau điếng như vừa lãnh một viên đạn. Lần đó, tao không đánh giặc vậy mà tao lại bị thương, bị thương ở trong lòng.
17 Tháng Bảy 2011(Xem: 17287)
Anh đã trả gía cho cơn sốt tình ấy 10 ngàn đô la, qúa đắt so với “gía cả” bình thường của cô Nâu “đi” với những người đàn ông khác, và suýt nữa bằng cả sinh mạng của anh và vợ anh, cũng như tương lai của hai con sẽ ảnh hưởng không biết tai hại đến chừng nào.
03 Tháng Bảy 2011(Xem: 20935)
Ngoài song thân ra, người tôi biết ơn nhiều nhất là vợ tôi. Đời sống tôi có ý nghĩa hơn, sung sướng hơn, hạnh phúc hơn nhờ vợ khôn ngoan dịu dàng .Nhiều đêm thức giấc tôi nhẹ hôn lên mắt vợ,
29 Tháng Sáu 2011(Xem: 18659)
Anh thầm thì: xin hãy chôn chặt hộ tôi cái quá khứ đau thương và lầm lỡ đó lại. Chính nó đã gây biết bao chia lìa, tang tóc, và sự thù hận giữa những người anh em cùng một mẹ, không biết sẽ kéo dài cho đến bao giờ?
19 Tháng Sáu 2011(Xem: 19076)
Tôi buông ống nghe, thẫn thờ nhìn ra ngoài cửa sổ như muốn tìm kiếm một điều gì. Trời mùa đông Bắc Âu phủ đầy tuyết trắng, nhưng sao trước mắt tôi đang lung linh bầu trời xanh bao la của cả một thời tuổi thơ. Cái thuở ba thằng chúng tôi vui đùa nghịch ngợm, trong lòng chưa hề vướng bận chuyện chiến tranh kéo theo bao cay đắng cuộc đời.
19 Tháng Sáu 2011(Xem: 17548)
Trước 1975, tác giả từng viết nhiều truyện ngắn trên bán nguyệt san Tuổi Hoa, và các truyện dài xuất bản bởi Tủ Sách Tuổi Hoa. Sau 30/4/1975, Cam Li không viết nữa, chỉ chuyên làm công việc nghiên cứu khoa học. Định cư tại San Jose từ 2003, sáu năm sau cô góp nhiều bài viết giá trị . Bài mới nhất của tác giả dành cho mùa lễ Father’s Day 2011.
09 Tháng Sáu 2011(Xem: 19224)
Và trong khi cô tìm kiếm ý nghĩa của cuộc đời qua ánh sáng chiếc màn ảnh điện thoại, bà cụ ngồi ở băng sau đã trở nên vô hình, và cô đã không thể trông thấy những giọt nước mắt của bà.
30 Tháng Năm 2011(Xem: 19404)
trên vách tường cũ vẫn treo tấm giấy khen “Anh hùng diệt Mỹ” đóng khung, lồng kính và đã bạc màu hoen ố theo thời gian của anh Siêu không còn nữa, mà thay thế vào là khung hình mới tinh, trên bức tường cũng mới tinh, hình gia đình cô Lạc, cô với người chồng Mỹ
28 Tháng Năm 2011(Xem: 21390)
Bởi vì chúng ta có mắt, cho nên khi chúng ta nhìn người, chỉ dựa vào cảm giác của mắt, mà quên dùng trái tim. Đúng như người vợ mù đã nói, "Con mắt của trái tim mới sáng nhất, thật nhất!"
24 Tháng Năm 2011(Xem: 18355)
nghiệp do chính con người tạo ra, bất định tính nên nghiệp có thể chuyển hóa được. Do đó, con người có thể thay đổi, chuyển hóa nghiệp báo của mình từ xấu thành tốt, từ ác thành thiện hoặc ngược lại
23 Tháng Năm 2011(Xem: 20254)
ôi nhớ mỗi năm khi ngày "Mother's Day" đến, các ông thường kiếm cớ “em là vợ anh chứ có phải là má anh đâu mà anh phải mua quà."(Câu này tôi nghe quen quen quí vị ạ )
21 Tháng Năm 2011(Xem: 17987)
Làm sao mẹ tôi có thể sống thiếu tôi! Tôi là nguồn sống của bà mà! Tất cả sinh lực, ý chí phấn đấu trước kia là vì tương lai của tôi, là vì tôi! Không có tôi bên cạnh, không có đứa con trai thương yêu của bà bên cạnh
18 Tháng Năm 2011(Xem: 20374)
Mỗi ngày, trong nắng ấm, nhìn biển trời, nghe sóng biển rì rào, Lang da diết nhớ về Nha Trang, về những ngày tuổi thơ cùng với gia đình, thầy bạn, và hồi tưởng về một quá khứ với biết bao thăng trầm biến đổi của quê hương, của gia đình và của cả một đời người.
06 Tháng Năm 2011(Xem: 19806)
đằng sau sự tỏa sáng của một người đàn ông Việt Nam thường là cái bóng thầm lặng của một người phụ nữ.Mời quí độc giả nghe con gái của nhà văn Doãn Quốc Sỹ kể lại cuộc đời thầm lặng của mẹ mình nhân ngày Mother Day…
04 Tháng Năm 2011(Xem: 19858)
Hôm nay là ngày giỗ mẹ, tôi viết những dòng này là tâm sự của một người con suốt đời không có mẹ ở bên và thành kính dâng lên hương hồn mẹ như một nén nhang thắp muộn.