11:19 CH
Thứ Tư
24
Tháng Tư
2024

ĐẠI BÀNG GẨY CÁNH - Phương Toàn

07 Tháng Mười Một 20159:18 CH(Xem: 12811)

Đại Bàng Gẫy Cánh - F5 *
Cựu thợ lái máy bay chuồn chuồn ở Căn Cứ KQ Phù Cát
Phương Toàn

 

blank
blank


Nghe nói ngày trước, khi tuyển một khóa sinh Không Quân, ngoài phần khám y khoa, còn có mục khảo sát về thẩm mỹ ngoại hình. Chẳng biết tin này có thiệt hay không, nhưng năm 1969 không còn thấy áp dụng nữa.

KQ lúc này không còn ròng rã là những đấng hào hoa đẹp trai, mà đã lẫn lộn vào đó là vài khuôn mặt không mấy rạng rỡ. Nhân cơ hội này, Tú, Lương và tôi đã trà trộn vào thành phần “Thượng lưu của quân đội”.

Diễn tả lại dung mạo của thằng Tú, không gì điển hình hơn là nhắc lại câu nói của niên trưởng ngày huấn nhục ở Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang:

-Không hiểu ban tuyển mộ KQ mù cả hay sao mà ông lại lọt được vào đây!

Thật ra thằng Tú không đến nỗi xấu, nó chỉ bị rỗ hoa, miệng lúc nào cũng toe ra cười như cái loa của Tổng Lãnh Thiên thần Mi ca e. Nó nhỏ con nhưng có đặc tính là hễ giận ai thì hay nói:

-Ông vặn cổ mày bây giờ.

Hỗn danh nó là thằng Hố Lai, tuy nhà nó ở Sài Gòn.

Phần tôi không biết căn cứ vào sách tướng số nào, mà thằng Tú nói tôi là thằng lừa thầy phản bạn, tiểu nhân và ra đời đụng đâu thua đó. Thằng Lương thì ngược lại, nó to con, da ngăm đen và có gương mặt rất nông dân chân chính, nên bọn tôi gọi nó là Võ Tòng Sát Tẩu. Con gái nhìn thấy nó cứ phải len lén quay đi chỗ khác, vì sợ nó tán nhầm.

Ba đứa chúng tôi thi nhau làm lung lay cái huyền thoại hào hoa của quân chủng. Nhập khóa 69A ở Nha Trang, Lương lớn nhất nên được tôn là sư huynh. Có một niên trưởng rất hắc ám tên là Thái hay phạt thậm vô lý nên Lương ra lệnh cho tụi tôi:

-Tao đặt tên cho thằng Thái là Dúi, nhưng tụi mày chỉ nên kêu nó là Dúi thôi chứ kêu Thái Dúi, nó biết nó phạt cho thì toé khói.

Tính Lương rất vui, một bữa kia nó thấy thằng Liên đang lau súng để gác đặc công gài chất nổ trong barrack (chắc mọi người còn nhớ năm 1969 VC đã dùng plastic nổ doanh trại Trường HSQ Đồng đế làm chết rất nhiều khóa sinh) nó đến gần nhỏ nhẹ hỏi:

-Ê Leng, ke đẹ leng béng nghe bèng bèng hỉ”
(Ê Liên, cây đại liên bắn nghe bằng bằng hả)

Liên gốc người Quảng Nam nên nổi tam bành, xách súng đuổi Lương chạy vòng vòng trong barrack, miệng liên tục chửi:

-Tau béng xí mẹ thèng Béc Kỳ.

(Hình như nó nói: Tao bắn thấy mẹ thằng Bắc Kỳ) làm náo loạn cả Phi đội.

Mãn khóa quân sự trở về Tân Sơn Nhất (TSN), thi xếp lớp Anh ngữ, Lương học lớp 1100, tức lớp Anh ngữ vỡ lòng. Tôi rất ngạc nhiên vì trước khi sang KQ, Lương đã là Trung sĩ Thông Dịch Viên, nhưng nó tâm sự:

-Làm Thông Dịch Viên dễ hơn là học Anh Văn để du học. Hồi tao đi theo toán Dân Sự Vụ vô làng nọ để khám bệnh, phát thuốc cho dân chúng, có một bà khai bị bịnh mất ngủ, tao không biết dịch thế nào, nghĩ mãi mới ra câu; “Xi nô xì líp. Xi nít áp bờ rin.” Không biết thằng cha BS Mỹ có hiểu tao nói “She no sleep. She need apirin” không mà nó cũng phát cho bà ta một bốc thuốc.

Thấm thoát mấy tháng ở trường Sinh ngữ cũng qua mau, cả ba thằng chúng tôi lại gặp nhau ở Lackland, San Antonio, Texas. Không biết thằng Lương kiếm ở đâu ra mà nhiều “bùa” lắm. Hôm trước khi thi test, nó mò xuống phòng tôi rồi bảo:

-Mày nhớ kỹ câu này “Có con chó cái cắn bạn đau chẳng ai đền. Bốn anh công an đi bên đường đỡ cho bạn”.

Tôi cũng chưa hiểu công dụng của lá bùa thì nó giải thích thêm:

-Cứ theo mẫu tự câu bùa mà khoanh vào. Có con chó cái nghĩa là bốn câu đầu là c, c, c và c; cắn bạn đau chẳng ai đền là c, b, d, c, a và d.

Quả thật bùa của nó rất linh, hôm đó tôi được 20/20.

Lương xuống BX (Base Exchange) mua sắm, nó muốn mua một bộ đồ ngủ để mặc buổi tối. Ông nông dân này muốn đóng vai phú hộ trưởng giả ngày xưa. Nó ôm về một bịch ni-lông trên đó đề rõ ràng chữ Pijama, nhưng mở ra thì cái quần cụt ngang đầu gối và cái áo cổ trái tim!

Lương mặc vô trông rất cũn cỡn, nó chữa thẹn bằng câu khen: “Hết xẩy” rồi uốn éo đi tới đi lui như một tên GAY chính hiệu.

Đến nay hơn 30 năm đã trôi qua mà tôi vẫn còn hình dung được cái dung nhan Uất Trì Cung của nó rất tương phản với bộ đồ ngủ, mà tôi cứ ngờ ngợ là dành cho đàn bà.

Lương ở khu GOẠP trong căn cứ (WAF: Woman Air Force) nhưng hầu như tuần nào nó cũng đón xe bus lên chỗ chúng tôi ở, những lúc này là lúc bạn bè tâm sự nhiều nhất, và cũng là lúc nó chọc thằng Tú nhiều nhất. Nó hỏi:

-Ê Hố Lai (Hố Nai) nghe nói ông cố nội mày ở gần nhà bà hàng xóm ông thầy đồ phải không?

Thằng Tú không hiểu nó muốn nói gì, nhưng cũng vặn lại:

-Ừ rồi sao?

-Vậy chắc mày rành điển tích lắm. Mày có biết ông Lê Quý Đôn than rằng “Phi công nghèo lắm ai ơi. Áo thời thiếu nút quần thời thiếu lưng” không?

-Xạo vừa vừa thôi bố, thời đó làm gì đã có máy bay.

Lương gân cổ lên:

-Thằng nhãi ranh, nói có sách mách có chứng đây này. Ông Lê Quý Đôn có nói: Phi trí bất hưng. Phi công bất phú. Phi nông bất ổn. Phi thương bất hoạt

Phi công bất phú không phải lái máy bay nghèo mạt rệp là gì.

Thời gian du học sung sướng trôi qua nhanh, chúng tôi đều tốt nghiệp rồi về nước nhưng mỗi đứa một nơi. Lương ra Nha Trang lái A37; Tú lái trực thăng ở Phù Cát còn tôi Biên Hòa. Hôm Lương về Sài Gòn rủ tôi xuống xứ Bùi Thái thăm thằng Trinh, bạn cùng khóa 69A nhưng sau thiếu sức khỏe phi hành nên đổi ra Bộ Binh. Lương nghe đồn là kế bên nhà Trinh có ông bán bánh mì bị ma bắt. Câu chuyện thật hoang đường nhưng sự kiện thì rất khó giải thích theo khoa học. Khi chúng tôi đến Bùi Thái thì ông bán bánh mì vẫn còn nằm trong buồng, đầu tóc rụng trọc lóc.

Người nhà kể trước đây ông vẫn lên chợ Thủ Đức lúc ba bốn giờ sáng lấy bánh mì về bán rong. Hôm ấy như thường lệ ông chở một sọt đầy bánh mì đem về, khi chạy ngang Nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa thì có người gọi lại mua cả sọt. Ông nhìn mặt quen quen nhưng không nhận ra là ai. Mừng vì hôm nay được nghỉ sớm, ông ngủ một giấc nữa rồi ngồi dậy móc tiền ra đếm thì hỡi ơi, toàn là tiền vàng mã, loại để cúng người chết. Lúc này ông mới sực nhớ lại khuôn mặt người mua bánh lúc sớm, đúng y như bức tượng Thương Tiếc mà ông vẫn thấy mỗi ngày khi chạy ngang qua nghĩa trang!

Ông Bánh Mì hồn phi phách lạc, ông ốm luôn và mấy hôm sau thì tóc rụng sạch.

Lương trầm ngâm nói:

-Nghĩa Trang Quân Đội linh lắm. Nếu có chết, tao thích nằm ở đó hơn là nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi.

Vài tuần sau trong lúc ngồi hớt tóc, tôi đọc báo thấy phân ưu kín cả trang cuối, đọc kỹ thì ra đó là thằng Tú, vừa gãy cánh ở Phù Mỹ, Qui Nhơn. Tôi lặng người, thương tiếc một đứa bạn thân vừa hy sinh cho dân tộc.

Image

 
Năm 1973 Lương đang bay A37 ở Nha Trang thì chuyển về phi đoàn F5 Biên Hòa. Nó tâm sự là tuổi mình cũng đã lớn, gia đình muốn nó “có nơi có chốn để gửi tấm thân”, nên lập gia đình với một người mà Lương mô tả là hết xẩy.

Khoảng hơn năm sau, có đứa con trai đầu lòng nó khoe với tôi:

-Tao đặt tên con là Vũ, chữ vũ là mạnh, là mưa, là... nhiều nghĩa lắm.

Tôi chọc nó:

-Ừ “Vũ ỷ mạnh, Vũ ra Vũ múa. Vũ gặp mưa Vũ ướt hết lông”.

Lần cuối cùng tôi gặp Lương ở quán cà phê của phi đoàn nó, hôm đó nó đang trực hành quân. Tôi hẹn hai ngày nữa gặp nhau ở nhà Lương ngoài Tân Mai nhậu chơi. Vài hôm sau, khoảng 5g chiều tôi từ Sài Gòn ra Biên Hòa, vừa quẹo vào con hẻm nhỏ thì thấy chị của Lương. Tôi chưa kịp hỏi thì chị òa lên khóc:

-Thằng Lương nó đi hai ngày rồi không về.

Tôi tưởng nó biệt phái vùng khác nên nói:

-Biệt phái ít ngày rồi về chứ có gì đâu mà khóc.

-Không phải cậu ạ. Người ta nói nó nhảy dù khi máy bay bị bắn rớt.

Đoán là đã có chuyện khẩn cấp nên tôi hỏi vài câu rồi vọt vô phi đoàn, thấy Phi vụ lệnh có chiếc sẽ đi rescue chiếc F5 bị rớt tôi tình nguyện đi liền. Khi chúng tôi đáp ở Bộ Tư Lệnh QĐIII để nhận tin tức của Quân Báo, thì vị Thiếu tá Trưởng phòng nói:

-Thôi anh về đi. Tin nhận được là tụi Trung Đoàn 24 Chiến xa BV đã bắt được phi công rồi!

Tôi trở về phi trường, lấy xe chạy ra nhà Lương thì chỉ gặp cô Mừng, cháu gái của Lương đang coi nhà. Tôi cũng không biết báo tin thế nào cho ổn nên xã giao vài câu rồi ra sạp báo đầu đường mua tờ Tuổi Ngọc, trở lại đưa cho cô bé, trong đó có kẹp tờ giấy ghi vài dòng: “Cậu Lương đã bị VC bắt. Báo cho ba má cháu biết”. Hôm ấy đứa con trai của Lương mới được 20 ngày.

Đời phi công, có lẽ khổ tâm nhất là lúc đi báo cho thân nhân biết bạn bè mình gẫy cánh. Có một lần tôi phải ra Biên Hòa báo tin là thi hài Đại úy Hoài đã tìm thấy ở Hạ Lào. Tôi cứ đinh ninh rằng gia đình ông đã biết Đại úy Hoài chết trước đó cả tuần lễ. Thực ra BTL/KQ chỉ báo là ông bị mất tích vì chưa lấy được xác. Khi tôi báo tin xong, cô em gái Hoài la lên:

-Má ơi, anh Hoài chết thật rồi.

Cô ngã ra bất tỉnh. Cả nhà vang tiếng khóc.

Khi tôi đổi ra Phù Cát, nghe đồn là SĐ25BB có thấy một xác chết lâu ngày ở trong rừng, còn mặc đồ bay, tôi cứ ngờ ngợ, không biết có phải là xác của Lương không. Năm 1978 sau khi đi tù về, tôi bị quản chế nên thường bị công an gọi tập trung lên Huyện, gặp một người trông quen lắm, anh ta gọi tôi:

-Ê Toàn, tao là Hà Diên Tuynh bạn học ngày xưa đây. Có phải mày quen thân với thằng Lương lái F5 không?

Thì ra trước đây tôi cũng tưởng thằng Tuynh đi BB tử trận ở Bù Na gần Đồng Xoài. Tôi ngạc nhiên sao thằng này lại biết Lương. Nó kéo tôi ra xa xa rồi kể:

-Tao bị bắt làm tù binh rồi bị đưa ra Bắc, nhốt chung một chỗ với thằng Lương lâu lắm. Khi biết nó là pilot, tao mới hỏi nó có biết mày không, thì ra tụi mày là bạn cùng khóa. Thằng Lương gan cóc tía, mấy tay quản giáo đì nó lắm vì nó là “Lãnh tụ” trong tù của bọn tao đó. Cũng vì vậy mà hiện nay nó vẫn còn bị tù ngoài bắc đấy. Hôm tao về có ghé nhà nó đưa thư. Tôi mừng khi nhận được tin này, nhưng cũng buồn cho số phận hẩm hiu của Lương, sau bao nhiêu năm tù tội mà vẫn chưa được thả cho về.

Tỵ nạn tại Mỹ, một lần trong giấc mơ tôi gặp lại Lương. Nó ôn chuyện cũ với tôi, về những lần đánh xe tăng vào Mùa Hè Đỏ lửa, về chuyện nó ốp thằng Trung (Nguyễn Thành Trung thả bom Dinh Độc Lập) khi bắt gặp thằng này đi trượt patin ở Bình Triệu mà mặc đồ bay. Tôi mất liên lạc với gia đình Lương đã lâu, nhưng vẫn mường tượng bạn mình đã chết trong tù. Tôi mong mỏi có ngày nào đó được tin xác thực của Lương.

Vào đầu tháng giêng năm 2004, Email của Khóa 69A có bản tin nói rằng ít tháng trước khi mất nước, tại núi Bà Đen Tây Ninh, có một phi công trực thăng thuộc khóa 69A đã cứu được Phan Huy Bách cùng khóa với mình (Bách là con của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát) khi chiếc A37 bị bắn rơi và Bách kịp bung dù. Còn hai phi công nữa cũng lái A37 thì bị VC bắt, trong đó có Trần Văn Lương, tự Lương Răng Vàng.

Tôi trả lời email trên là Lương Răng Vàng không rớt tại núi Bà Đen; Lương cũng không còn lái A37 nữa mà vào năm 74 nó đang lái F5 và rớt khi đang lái loại máy bay này, chứ không phải mãi đến năm 75 mới bị bắn rơi với chiếc A37.

Ít lâu sau, Nguyễn Tài Cơ cho tin đích xác: Lương đã chết trong một trại tù miền bắc. Hoàng Gia Viễn bạn học cùng khóa T28 với Lương còn cho biết chị Lương đang sống ở Washington và cho số phone để anh em liên lạc.

Cuối cùng tôi đã liên lạc được với chị Lương. Hiện nay chị đang sống với người em tại Seattle. Cháu Vũ đã học thành tài và đang làm việc ở California. Chị cho tôi biết kể từ khi Lương bị bắt, gia đình không được một tin tức gì, cho mãi đến sau ngày mất nước mới nhận được tin chồng còn sống và bị giam ở ngoài bắc. Qua bao nhiêu khổ ải chị mới tìm ra chỗ trại giam, lúc này Lương đã bị bịnh thật nặng, chỉ còn da bọc xương, bạn bè phải cõng ra chỗ thăm nuôi. Trở về Sài Gòn, chị vội vã mua thuốc men để ra thăm lần nữa, nhưng không kịp nữa rồi, có người được thả về tới báo tin anh Lương đã nằm xuống vĩnh viễn ngay vào ngày kỷ niệm hôn nhật của hai người, tại một vùng đất có tên là trại Đô Lương, Nghệ Tĩnh, có ám số là AH 118 NT K2. Chị Lương đã nhiều lần cố gắng tìm hài cốt của chồng nhưng chưa kết quả. Chị hy vọng một ngày rất gần sẽ kiếm được mộ phần của chồng để di chuyển về miền Nam.

Vậy là hơn 30 năm, chúng tôi đã nhận tin tức chính xác về Lương, đêm hôm đó tôi ngủ mơ gặp lại nó đang đứng cười, không nhận ra hai đứa đang ở đâu, nhưng cả hai đều vui vẻ lắm. Nơi cõi thiên thai nào đó có phải Lương đang hài lòng vì cuối cùng, toàn thể các bạn đồng khóa cũng đã biết số phận của Lương, tuy buồn thương nhưng cũng thật dũng cảm, một cánh đại bàng đã gãy cánh nơi chiến trường, sa vào tay địch, vẫn ngửng cao đầu lên đến ngày cuối của cuộc đời.

Lương, anh hồn mày nơi vĩnh hằng xin về với chúng tao, cả khóa 69A họp mặt lần thứ 40 kể từ ngày bọn mình quen nhau, để tưởng nhớ đến mày, thằng Tú, thằng Toản, thằng Sương... và nhiều đứa bạn khác đã nằm xuống cho quê hương mình. Bọn tao đã liên lạc được với gia đình mày. Xin chúc mừng con mày, không hổ danh là con một phi công, cháu Vũ đã thành đạt nơi xứ người, tiếng Anh hẳn là lưu loát không còn phải nói “Xi nô xì líp” như mày ngày nọ. Vợ mày, chị Lương đã ở vậy thờ chồng nuôi con khôn lớn từ ngày mày nằm xuống, cho dù lúc ấy tuổi mới ngoài hai mươi.

Hãy cùng chúng tao cầu nguyện cho quê hương mình mau quang phục, để chúng tao và những người thân của mày có dịp về lại Việt Nam, đón rước thi hài đại bàng gãy cánh trở về, cùng với hài cốt của những đồng đội đã bị tứ tán mọi nơi về an táng tại Nghĩa Trang Quân Đội, nơi mày từng ao ước được nằm bên cạnh những chiến hữu chung một màu cờ. 

 

Phương Toàn

      

Chú thích: * - vì trong web site này đã có bài viết mang chung tựa đề “Đại Bàng gẫy cánh” nên BKT thêm chữ F5 để phân biệt. --BKT.

http://lhccshtd.org/LHCCSHTD_BV/TN/2015/lhccshtd_bv_tn_2015_daibangaycanh_f5_2015NOV07.htm

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
01 Tháng Năm 2011(Xem: 18529)
Rải tro theo gió... trên đỉnh đèo Hải Vân... ý nguyện của người đã khuất gợi lên trong tôi hình ảnh vừa bi hùng lại vừa lãng mạn, như là sự kết hợp tuyệt vời giữa mối tình của viên dũng tướng với cô con gái đầu lòng của nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.
27 Tháng Tư 2011(Xem: 19674)
Tôi không nói được gì hết, chỉ gục đầu vào vai vợ tôi rồi bật khóc . Vợ tôi chưa biết những gì đã xãy ra nhưng chắc nàng đoán được rằng tôi phải đau khổ lắm mới phát khóc như vậy. Cho nên nàng vừa đưa tay vuốt vuốt lưng tôi vừa nói, giọng đầy cảm xúc :« Ờ…Khóc đi anh ! Khóc đi ! »
23 Tháng Tư 2011(Xem: 18142)
Tôi ngồi đó để tưởng nhớ nước Việt Nam Cộng Hòa thân yêu của tôi. Tôi để hình tôi trên bàn thờ là coi như mình đã chết theo với nước Việt Nam Cộng Hòa của tôi. Tôi chỉ sống lây lất, lo nhang khói cho đồng đội, cho cha mẹ, vợ con
03 Tháng Tư 2011(Xem: 19796)
Trong niềm bồi hồi xúc động đến rưng rưng lệ khi đọc, chắc chắn quý độc giả không thể không biết ơn những người lính VNCH, Mỹ, Úc... đã đổ máu bảo vệ Miền Nam trước làn sóng xâm lăng của cộng sản trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam.... *
23 Tháng Ba 2011(Xem: 20242)
tưởng đã được giải quyết, phân tán người Việt Nam tỵ nạn trên nước Mỹ, nhưng không ngờ Xe đò Hoàng đơn thân độc mã mỗi ngày một chuyến kéo hai thành phố đông dân cư Việt Nam lại càng gần với nhau hơn nữa.
21 Tháng Hai 2011(Xem: 19933)
Già thì già, họ vẫn cảm thấy hạnh phúc – hạnh phúc hơn một tỷ người khác – cho dù hạnh phúc đó vẫn được họ đếm từng ngày sau mỗi buổi sớm mai thức dậy…
10 Tháng Hai 2011(Xem: 18597)
Tôi nhớ ơn anh chị, và cả vợ chồng anh Hy, chịu đựng được chúng tôi, mà không đấm cho vỡ mồm, hộc máu mũi. Càng lâu, tôi càng thấm thía cái câu ' Bầu bí một giàn'
04 Tháng Hai 2011(Xem: 19540)
Thế đó, họ bán, họ mua vừa như thật, vừa như “chơi” nhưng ai cũng hăm hở, náo nức. Dường như mỗi người đi chợ đang “bán”, đang “mua” cho mình một nỗi nhớ quê nhà vời vợi.
02 Tháng Hai 2011(Xem: 21462)
Hương thơm của gạo, vị ngọt của cơm lẩn với cát sạn tựa như cuộc đời của những quân nhân QLVNCH nói chung, SVSQTĐ nói riêng đã tự hào vào ngày mãn khóa sau mấy tháng quân trường mồ hôi thử thách đó là hương thơm của gạo. Để rồi chuẩn bị dấn thân vào cuộc đời đầy gian khổ hiểm nguy sống chết khó lường
28 Tháng Giêng 2011(Xem: 21084)
Họ gặp nhau và nhận ra nhau. Mới đầu, Hà Giang ôm chầm lấy Đôn mà khóc nức nở. Cô quên mất anh đang là một vị thầy tu. Xúc động nhất là khi Hà Giang cho anh biết Lam Khê chính là con của anh. Hai cha con họ ôm lấy nhau thật lâu và cả hai đầm đìa nước mắt.
21 Tháng Giêng 2011(Xem: 19848)
Hiện tại chúng tôi đang sống tràn trề hạnh phúc. Mùa xuân của cuộc đời tuy đến muộn nhưng chúng tôi bằng lòng lắm với những gì mình đang có, đang sống. Thiên đường có thật anh Hoàng ạ! Và chúng tôi đang tắm trong suối nguồn tươi mát của Thiên Đường.
16 Tháng Giêng 2011(Xem: 20275)
Thành phố lên đèn, tôi vật vờ vô định thoáng nghe bên tai tiếng dương cầm giai điệu bản "Giao hưởng số chin, cung rê thứ" của L.V. Beethoven mà tôi học ngày nào. Hiện tại, tôi chơi nhạc đám ma. Cái chết - quy luật tất yếu giúp tôi sinh tồn, các giá trị nghệ thuật cao quý chỉ còn là hoài niệm!
02 Tháng Giêng 2011(Xem: 21974)
Mũi súng AK thúc vào cạnh sườn, người vệ binh chắc cũng ngạc nhiên không hiểu sao bỗng dưng tôi đứng như trời trồng giữa lộ. Anh quắc mắt nhìn tôi dò hỏi, tôi không nói gì, im lặng nhập vào dòng tù. Nước mắt chảy dài trên hai má hóp, tôi bước đi như kẻ mộng du ...
07 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20776)
Trong cuộc chiến Việt Nam, những chàng pilot nổi tiếng hào hoa ở thành phố. Là thần tượng của các cô con gái đẹp. Nhưng có lẽ ít ai biết rằng, những chàng trai trẻ ấy lại là những chiến sĩ rất hào hùng trên khắp các chiến trường. Bao phen xem cái chết tựa lông hồng.
05 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 21799)
Lâu nay, khá đông người cho rằng thi sĩ Hàn Mạc Tử và nhà giáo kiêm cư sĩ Hoàng Thị Kim Cúc từng có một tình yêu đôi lứa. Lắm sách báo ghi nhận như vậy. Ngay cả lối sống khá đặc biệt của Kim Cúc – suốt đời độc thân, làm thơ tặng Hàn, chẳng chuyện trò điều này với người trong nhà… – càng khiến dư luận nghĩ vậy.
02 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20245)
Hầu hết bạn bè tôi, nếu còn sống sót sau cuộc chiến tang thương đó, kẻ đã phải ra đi trong loạn lạc, ly tan, người thì được ông bạn đồng minh phản bội năm xưa, can thiệp với kẻ cựu thù cho "ra đi trong vòng trật tự" sau nhiều năm bị đày đọa ngục tù, vợ con nheo nhóc, để giờ này mỗi người trôi dạt một phương, mang theo những vết thương không lành được ở trong lòng. Biết đến khi nào chúng tôi mới đuợc như những con chim trane đang tụ tập ca hót líu lo ngoài kia, trươc giờ bay xuống phương nam?
17 Tháng Mười Một 2010(Xem: 21044)
Một câu chuyện thật dí dỏm. Câu chuyện phần nào đã gợi nhớ đến một quảng đời thơ ấu thật êm đềm, hoa bướm ở vùng quê . Phải chi không có biến cố tháng tư 75, cuộc sống của những người dân miền nam hiền hòa chắc chắn là mãi mãi thanh bình, thịnh vượng, và an lành như tác giả "Lấy vợ miền quê" đã mô tả rất chân thật trong câu chuyện
11 Tháng Mười 2010(Xem: 19383)
Bây giờ, nhìn chú Ba nằm đó, tôi lại nhớ câu nói cuối cùng của chú: “Cứ để lá cờ ở đó, trong đầu óc của chú sẽ nhớ mãi hình ảnh lá cờ VNCH tung bay trong gió. Sau này, lá cờ sẽ ra sao? Để tương lai trả lời.”
08 Tháng Mười 2010(Xem: 20237)
Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo Tỉnh lộ 7 ngày xưa, mang theo trong lòng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng cả bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nhìn núi rừng hai bên đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn nữa...
08 Tháng Mười 2010(Xem: 21991)
Mọi người đều đến cõi đời nầy với hai bàn tay trắng, thì lúc ra đi cũng chỉ với hai bàn tay trắng mà thôi. Ai ai cũng đều biết như vậy, nhưng hễ sao mỗi khi nghĩ đến chết thì thấy rờn rợn và hơi lo một chút... Sống sao cho đáng sống mới là việc khó. Đời là vô thường!
07 Tháng Mười 2010(Xem: 27949)
Kính nguyện cầu Đấng Thiên Thựợng Đế tối cao và Hồn thiêng sông núi phù hộ cho toàn dân Việt sớm có ngày "đắc lộ thanh vân", đưa nước Việt lên đỉnh đài vinh quang thịnh trị ngàn đời.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 22678)
Chúng ta thường đi tìm một cái gì bên ngoài để mang lại cho mình hạnh phúc như vật chất, nhà cửa, xe hơi, máy móc, tiện nghi, … hoặc tình cảm gia đình, thân quyến, bạn bè, người yêu, … hoặc danh vọng, địa vị, lý tưởng. Ta khát khao tìm kiếm vì tưởng mình nghèo nàn, thiếu thốn, tâm luôn phóng ra ngoài chạy theo trần cảnh. Trong kinh Pháp Hoa kể thí dụ đứa cùng tử suốt đời đi ăn xin vì không biết trong túi mình có viên ngọc quý, đến khi được người bạn nhắc tỉnh ngộ lấy ngọc ra xài liền hết đói khổ.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 18874)
Tháng 8-1999, tôi dọn nhà đến một căn phòng mới mướn. Trên ngăn kệ cao của closet, người mướn trước để sót lại một xấp “hồi ký” dầy 27 trang viết tay. Đêm đầu tiên ở phòng trọ mới, tôi đọc đoạn “hồi ký” bi hùng đó với nỗi niềm thương cảm không tả xiết: Thương cảm cho một danh tướng trong bước đường cùng của vận nước đen tối; thương cảm cho phu nhân và 2 người con của Tướng tuẫn tiết và thương cảm vị sĩ quan trẻ, có lẽ là Chánh Văn Phòng của vị tướng anh hùng, tức tác giả của đoạn “hồi ký” nầy.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 19707)
Lần nầy, bà Hoa quyết định tự tay đem hộp tro xương ông chồng về tận Việt Nam. Bà sợ thất lạc thêm lần nữa, thì tấm lòng hoài.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 23252)
Người chết lâu rồi , người còn ở lại Từ cuối chân mây đêm bấc lạnh lùng Ngày hiển thánh cả giống nòi mong mỏi Của những linh hồn hữu thủy hữu chung
06 Tháng Mười 2010(Xem: 19787)
Tôi chắc chồng tôi cũng nuối tiếc như tôi và đang chờ tôi đi với anh. Chúng tôi phải nối tiếp lại những ngày hạnh phúc ngắn ngủi xa xưa. Tôi không thể sống mãi trong cô đơn để run sợ trước những ám ảnh của dĩ vãng và những nhung nhớ khôn nguôi người chồng mà tôi mãi mãi yêu thương như buổi đầu gặp gỡ!!
06 Tháng Mười 2010(Xem: 21666)
Cổ nhân cũng đã có câu “ngu si hưởng thái bình”, hay là ta cứ an phận thủ thường, con gái thì mong trời sinh ra đừng quá đẹp, con trai thì đừng có quá tài ba. Còn giàu có bạc muôn không ham, chỉ mong đừng chạy gạo từng ngày. Cứ làng nhàng là xong, không ai thèm muốn, đố kỵ, ganh ghét, nghĩ chuyện đời: “Giàu như người ta cơm ngày ba bữa, đói như mình đây cũng đỏ lửa ba lần.”
05 Tháng Mười 2010(Xem: 19564)
hôm nay ngồi viết lại những hàng chữ này như được thắp nén hương trang trọng cho chị, thưa chị Nở.