2:59 SA
Thứ Tư
24
Tháng Tư
2024

TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 20 -7- 1954 - HÀN GIANG TRẦN LỆ TUYỀN

21 Tháng Bảy 20145:45 CH(Xem: 10038)

Tưởng niệm Quốc Hận: 20-7-1954!

Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

“Đây phương Nam, đây ruộng Cà Mâu no lành, với tiếng hát êm đềm trong suốt đêm thanh…”. Dẫu cung đàn đã xưa, lời nhạc đã cũ; nhưng sẽ không bao giờ trở thành xưa cũ, khi chúng ta, những người dân của nước Việt Nam Cộng Hòa đã một thời được sống trong cảnh thanh bình, tự do, no ấm; vì thế, hôm nay, chúng ta, dù mái tóc đã phai mầu, nhưng mỗi lần lướt đôi tay trên chiếc dương cầm, hay trên những cây đàn tuyệt hảo của đầu thế kỷ 21, thì có lẽ trong chúng ta, dễ mấy ai quên đi những chiếc phím ngà xưa cũ của những cây đàn Mandoline của thế kỷ trước, với bài hát Trăng Phương Nam, để rồi có thể có nhiều người sẽ rưng rưng, khi vọng tưởng về những năm tháng thanh bình xưa đã mất, và không bao giờ tìm thấy lại, dù một lần nào nữa!

http://hon-viet.co.uk/mandoline2.gif

Hôm nay, ngày 20 tháng 7 năm 2012; để tưởng nhớ đến một ngày đất nước đã bị chia cắt, phân ly! Người viết muốn nhắc lại một bài đã viết trước đây: Kể từ khi nước Việt Nam Cộng Hòa rơi vào tay cộng sản, thì người Việt tỵ nạn chúng ta chỉ còn biết và tưởng niệm ngày 30/4/1975, là ngày Quốc Hận. Nhưng ngược thời gian trở về cuối thập niên 1950, và đầu thập niên 1960. Khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Người đã khai sinh ra Thể chế Cộng Hòa Việt Nam, thì người dân miền Nam đã từng tưởng niệm Ngày Quốc Hận là ngày 20/7/1954. Ngày ấy, theo hiệp định Genève, đất nước đã bị Cộng sản Bắc Việt và Pháp chia cắt thành hai miền bởi giòng sông Bến Hải. Miền Bắc do Hồ Chí Minh cai trị, với những cuộc “cách mạng” máu đổ đầu rơi, con tố cha mẹ, vợ tố chồng. Rồi “cách mạng văn hóa” làm cho không biết bao nhiêu người đã phải chết thảm, hoặc bị tù đày, tàn hại đến cả một đời người, mà đến cả sóng nước của giòng sông Bến Hải cũng phải khóc hờn ai oán:

“Con sông Bến Hải từ độ chia hai,

Đêm đêm nó khóc than hoài

Hờn căm cộng sản chia hai nhịp cầu

Lớn lên từng đợt u sầu

Bao giờ Nam-Bắc nhịp cầu sang ngang

Bên đây đời sống thênh thang

Bên kia kiếp sống điêu tàn xác xơ

Ruộng đồng lúa mọc lơ thơ

Máu pha nước mắt ngập bờ tre xanh!”

http://hon-viet.co.uk/CauHienLuong.jpg

Trong khi đó, tại miền Nam, dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đầy lòng nhân ái, Người đã sống một cuộc đời thanh bần, liêm khiết, quên mình, để tận hiến cho Quốc Gia và Dân tộc. Như mọi người đã biết, vào thời kỳ ấy, Nền Cộng Hòa Việt Nam còn non trẻ, lại còn thêm loạn sứ quân cát cứ, và không được đồng minh và quốc tế viện trợ như Việt Nam Cộng sản hiện nay. Nhưng Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã xây dựng được một nước Việt Nam Cộng Hòa tự do, phồn thịnh. Từ thành thị cho đến thôn quê, nơi đâu cũng được sống trong cảnh thanh bình, no ấm.

“Tiên thiên hạ vi ưu, vi ưu - Hậu thiên hạ vi lạc, vi lạc”; đó là, cách Sống của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Bởi vậy, cho nên chính vì xót đau cho những cảnh đời lầm than, đau khổ của đồng bào đang ở bên kia Vĩ tuyến, nên Tổng Thống Ngô Đình Diệm và là vị Tổng Tư Lệnh đầu tiên của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã có chủ trương Bắc Tiến. Nhưng tiếc rằng, con đường Bắc Tiến chỉ mới ở bước đầu, thì vị Tổng Thống đã có công nghiệp khai sáng Nền Cộng Hòa Việt Nam đã đi vào lịch sử.

Những điều ấy, đã được Thi sĩ Vũ Hoàng Chương viết thành những vần thơ, vì cứ ngỡ rằng “Từ nay trăm họ câu an lạc-Đàn khúc đầm Dao, rượu chén Quỳnh”, và với ước mơ Bắc tiến, để có một ngày “trở lại Cố đô- Đại định Thăng Long, một bóng Cờ”. Người viết xin chép lại những vần thơ của Thi sĩ Vũ Hoàng Chương, để mọi người cùng “chiêm nghiệm” như sau đây:

http://hon-viet.co.uk/vuhoangchuong.jpg

“Lò phiếu trưng cầu, một hiển linh

Đốt lò hương, gửi mộng bình sinh

Từ nay trăm họ câu an lạc

Đàn khúc đầm Dao, rượu chén Quỳnh!

Có một ngày ta trở lại cố đô

Lưỡi lê no máu rửa Tây Hồ

Trên tầng Chí Sĩ bàn tay vẫy

Đại định thăng Long, một bóng cờ”.

Nhưng không riêng Thi sĩ Vũ Hoàng Chương, mà Nhạc sĩ Lam Phương cũng đã viết thành một ca khúc Chuyến đò Vĩ tuyến, và đã đi vào Nhạc sử:

“Đêm nay trăng sáng quá anh ơi

Sao ta lìa cách bởi dòng sông bạc hai màu

Lênh đênh trên sóng nước mông mênh

Bao đêm lạnh lẽo em chờ mong gặp bóng chàng

Vượt rừng vượt núi đến đầu làng

Đò em trong đêm thâu sẽ đưa chàng sang vĩ tuyến

Phương Nam ta sống trong thanh bình

Tình ngát hương nồng thắm

bên lúa vàng ngào ngạt dâng

Ơ... ai... hò ...

Giòng sông mơ màng và đẹp lắm

Anh ơi ai nỡ chia đôi bờ

để tình ta ngày tháng phải mong chờ

Hò... hớ .... hò .... hơ ...

Em và cùng anh xây một nhịp cầu

Để mai đây quân Nam về Thăng Long

Đem thanh bình sưởi ấm muôn lòng !


Sương khuya rơi thấm ướt đôi mi

Tim em lạnh lẽo như chiều đông ngoài biên thùy

Ai gieo chi khúc hát lâm ly

Như khơi niềm nhớ cuộc từ ly lòng não nùng

Bùi ngùi nhìn cách xa ngàn trùng

Giờ đây em điêu linh nơi quê nhà đang chìm đắm

Bao đêm thổn thức dưới trăng ngà

Hồn đắm say chờ đón ngày anh về sưởi lòng nhau”.

Nhưng than ôi! Những hoài bão, những ước mơ, mà chắc của rất nhiều người; đặc biệt nhất, là những đồng bào của Miền Bắc đã đành phải nuốt nước mắt khi quyết định phải vào miền Nam để tỵ nạn Cộng sản. Và chỉ có chính họ, mới thấu được những nỗi đau thương khi phải rời bỏ nhà cửa, ruộng vườn, có nhiều gia đình đã phải lạc mất người thân, khiến cho gia đình của họ đành phải đôi bờ bên giòng sông Bến Hải và cầu Hiền Lương, với ước mơ: “Bao giờ Nam-Bắc nhịp cầu sang ngang”, và “anh cùng em xây một nhịp cầu, Để mai đây quân Nam về Thăng Long, Đem thanh bình về sưởi ấm muôn lòng”.

Những nỗi đau thương của đồng bào miền Bắc, vào thời điểm sau ngày 20/7/1954 ấy, tại miền Nam ít ai hiểu thấu; nhưng cho đến sau ngày 30/4/1975, thì những người Việt Nam tỵ nạn Cộng sản thực sự, và khi bước xuống những con thuyền mong manh để vượt biển, hoặc chạy trốn khỏi đất nước trên những con đường rừng; chỉ đến lúc đó, khi ngoái nhìn về nơi cố quốc, thì họ mới thấy lòng quặn thắt, mới thấu được những nỗi đau của đồng bào miền Bắc ngày xưa, khi không còn con đường nào để chọn bằng con đường phải ra đi!

Ôi! Những dòng nước mắt nào đã rơi rơi trên suốt con đường từ Bắc vào Nam, và những dòng nước mắt nào đã rơi xuống những bãi biển, rơi trên những con thuyền đã đưa người ra khơi, để đi tìm sự sống trong cái chết, và đã có biết bao nhiêu người đã phải bị vùi chôn dưới đáy nước, hay đã vĩnh viễn bỏ mình ở các trại tỵ nạn xa xôi!

Làm sao nói hết được nỗi đau; bởi vì tất cả những ngôn từ của nhân loại không làm sao diễn đạt cho vừa với những vết thương, những nỗi đau đớn quá kinh hoàng, và những mất mát, mà không có bất cứ một thứ vật chất nào có thể bù đắp, mà mãi mãi sẽ không bao giờ quên được, và trong số người ấy, đã có rất nhiều người là đồng bào miền Bắc đã từng đứt ruột rời bỏ tất cả, để vào Nam tỵ nạn Cộng sản, những tưởng rằng đã chạy thoát; đâu có ngờ rằng, mình sẽ phải chạy giặc tới hai lần, và trong số ấy, cũng có nhiều người đã vĩnh viễn không bao giờ còn nhìn thấy lại chốn cũ, làng xưa!

Giờ đây, kể từ ngày Quốc Hận: 20/7/1954; 58 năm dài đã trôi qua, với bao nhiêu những biến cố tang thương, dâu bể, dù là người miền Bắc hay người miền Nam, và dù một lần, hay hai lần bỏ xứ ra đi, sống đời tỵ nạn trên những đất nước tạm dung, hoặc ngay cả những đồng bào tại quốc nội; nhưng hôm nay, với hệ thống thông tin toàn cầu, với những hình ảnh, và những thước phim tài liệu hoàn toàn trung thực, thì có lẽ đa số đồng bào đã biết được cuộc sống tương đối tự do, no ấm, thanh bình của đồng bào tại miền Nam dưới thời Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa: 1954-1963; thì chắc chắn sẽ thấy được công nghiệp của Người đã khai sáng Thể chế Cộng Hòa Việt Nam, và rồi sẽ bồi hồi thương tiếc cho tất cả những gì đáng phải trân-quý, đáng phải gìn giữ; nhưng bây giờ đã mất, để rồi mãi mãi chỉ còn biết tìm lại qua dư âm của những lời ca, tiếng nhạc và những vần thơ năm cũ:

Đẹp thay Chính Thể Cộng Hòa,

Vui thay tiếng hát câu ca thanh bình.

Cộng Hòa như ánh Bình Minh,

Như giòng nước mát như tình lúa xanh.

Pháp quốc, 20/7/2012

Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
01 Tháng Năm 2011(Xem: 18522)
Rải tro theo gió... trên đỉnh đèo Hải Vân... ý nguyện của người đã khuất gợi lên trong tôi hình ảnh vừa bi hùng lại vừa lãng mạn, như là sự kết hợp tuyệt vời giữa mối tình của viên dũng tướng với cô con gái đầu lòng của nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.
27 Tháng Tư 2011(Xem: 19670)
Tôi không nói được gì hết, chỉ gục đầu vào vai vợ tôi rồi bật khóc . Vợ tôi chưa biết những gì đã xãy ra nhưng chắc nàng đoán được rằng tôi phải đau khổ lắm mới phát khóc như vậy. Cho nên nàng vừa đưa tay vuốt vuốt lưng tôi vừa nói, giọng đầy cảm xúc :« Ờ…Khóc đi anh ! Khóc đi ! »
23 Tháng Tư 2011(Xem: 18139)
Tôi ngồi đó để tưởng nhớ nước Việt Nam Cộng Hòa thân yêu của tôi. Tôi để hình tôi trên bàn thờ là coi như mình đã chết theo với nước Việt Nam Cộng Hòa của tôi. Tôi chỉ sống lây lất, lo nhang khói cho đồng đội, cho cha mẹ, vợ con
03 Tháng Tư 2011(Xem: 19792)
Trong niềm bồi hồi xúc động đến rưng rưng lệ khi đọc, chắc chắn quý độc giả không thể không biết ơn những người lính VNCH, Mỹ, Úc... đã đổ máu bảo vệ Miền Nam trước làn sóng xâm lăng của cộng sản trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam.... *
23 Tháng Ba 2011(Xem: 20241)
tưởng đã được giải quyết, phân tán người Việt Nam tỵ nạn trên nước Mỹ, nhưng không ngờ Xe đò Hoàng đơn thân độc mã mỗi ngày một chuyến kéo hai thành phố đông dân cư Việt Nam lại càng gần với nhau hơn nữa.
21 Tháng Hai 2011(Xem: 19926)
Già thì già, họ vẫn cảm thấy hạnh phúc – hạnh phúc hơn một tỷ người khác – cho dù hạnh phúc đó vẫn được họ đếm từng ngày sau mỗi buổi sớm mai thức dậy…
10 Tháng Hai 2011(Xem: 18594)
Tôi nhớ ơn anh chị, và cả vợ chồng anh Hy, chịu đựng được chúng tôi, mà không đấm cho vỡ mồm, hộc máu mũi. Càng lâu, tôi càng thấm thía cái câu ' Bầu bí một giàn'
04 Tháng Hai 2011(Xem: 19537)
Thế đó, họ bán, họ mua vừa như thật, vừa như “chơi” nhưng ai cũng hăm hở, náo nức. Dường như mỗi người đi chợ đang “bán”, đang “mua” cho mình một nỗi nhớ quê nhà vời vợi.
02 Tháng Hai 2011(Xem: 21461)
Hương thơm của gạo, vị ngọt của cơm lẩn với cát sạn tựa như cuộc đời của những quân nhân QLVNCH nói chung, SVSQTĐ nói riêng đã tự hào vào ngày mãn khóa sau mấy tháng quân trường mồ hôi thử thách đó là hương thơm của gạo. Để rồi chuẩn bị dấn thân vào cuộc đời đầy gian khổ hiểm nguy sống chết khó lường
28 Tháng Giêng 2011(Xem: 21076)
Họ gặp nhau và nhận ra nhau. Mới đầu, Hà Giang ôm chầm lấy Đôn mà khóc nức nở. Cô quên mất anh đang là một vị thầy tu. Xúc động nhất là khi Hà Giang cho anh biết Lam Khê chính là con của anh. Hai cha con họ ôm lấy nhau thật lâu và cả hai đầm đìa nước mắt.
21 Tháng Giêng 2011(Xem: 19844)
Hiện tại chúng tôi đang sống tràn trề hạnh phúc. Mùa xuân của cuộc đời tuy đến muộn nhưng chúng tôi bằng lòng lắm với những gì mình đang có, đang sống. Thiên đường có thật anh Hoàng ạ! Và chúng tôi đang tắm trong suối nguồn tươi mát của Thiên Đường.
16 Tháng Giêng 2011(Xem: 20272)
Thành phố lên đèn, tôi vật vờ vô định thoáng nghe bên tai tiếng dương cầm giai điệu bản "Giao hưởng số chin, cung rê thứ" của L.V. Beethoven mà tôi học ngày nào. Hiện tại, tôi chơi nhạc đám ma. Cái chết - quy luật tất yếu giúp tôi sinh tồn, các giá trị nghệ thuật cao quý chỉ còn là hoài niệm!
02 Tháng Giêng 2011(Xem: 21971)
Mũi súng AK thúc vào cạnh sườn, người vệ binh chắc cũng ngạc nhiên không hiểu sao bỗng dưng tôi đứng như trời trồng giữa lộ. Anh quắc mắt nhìn tôi dò hỏi, tôi không nói gì, im lặng nhập vào dòng tù. Nước mắt chảy dài trên hai má hóp, tôi bước đi như kẻ mộng du ...
07 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20775)
Trong cuộc chiến Việt Nam, những chàng pilot nổi tiếng hào hoa ở thành phố. Là thần tượng của các cô con gái đẹp. Nhưng có lẽ ít ai biết rằng, những chàng trai trẻ ấy lại là những chiến sĩ rất hào hùng trên khắp các chiến trường. Bao phen xem cái chết tựa lông hồng.
05 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 21797)
Lâu nay, khá đông người cho rằng thi sĩ Hàn Mạc Tử và nhà giáo kiêm cư sĩ Hoàng Thị Kim Cúc từng có một tình yêu đôi lứa. Lắm sách báo ghi nhận như vậy. Ngay cả lối sống khá đặc biệt của Kim Cúc – suốt đời độc thân, làm thơ tặng Hàn, chẳng chuyện trò điều này với người trong nhà… – càng khiến dư luận nghĩ vậy.
02 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20241)
Hầu hết bạn bè tôi, nếu còn sống sót sau cuộc chiến tang thương đó, kẻ đã phải ra đi trong loạn lạc, ly tan, người thì được ông bạn đồng minh phản bội năm xưa, can thiệp với kẻ cựu thù cho "ra đi trong vòng trật tự" sau nhiều năm bị đày đọa ngục tù, vợ con nheo nhóc, để giờ này mỗi người trôi dạt một phương, mang theo những vết thương không lành được ở trong lòng. Biết đến khi nào chúng tôi mới đuợc như những con chim trane đang tụ tập ca hót líu lo ngoài kia, trươc giờ bay xuống phương nam?
17 Tháng Mười Một 2010(Xem: 21043)
Một câu chuyện thật dí dỏm. Câu chuyện phần nào đã gợi nhớ đến một quảng đời thơ ấu thật êm đềm, hoa bướm ở vùng quê . Phải chi không có biến cố tháng tư 75, cuộc sống của những người dân miền nam hiền hòa chắc chắn là mãi mãi thanh bình, thịnh vượng, và an lành như tác giả "Lấy vợ miền quê" đã mô tả rất chân thật trong câu chuyện
11 Tháng Mười 2010(Xem: 19382)
Bây giờ, nhìn chú Ba nằm đó, tôi lại nhớ câu nói cuối cùng của chú: “Cứ để lá cờ ở đó, trong đầu óc của chú sẽ nhớ mãi hình ảnh lá cờ VNCH tung bay trong gió. Sau này, lá cờ sẽ ra sao? Để tương lai trả lời.”
08 Tháng Mười 2010(Xem: 20232)
Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo Tỉnh lộ 7 ngày xưa, mang theo trong lòng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng cả bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nhìn núi rừng hai bên đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn nữa...
08 Tháng Mười 2010(Xem: 21987)
Mọi người đều đến cõi đời nầy với hai bàn tay trắng, thì lúc ra đi cũng chỉ với hai bàn tay trắng mà thôi. Ai ai cũng đều biết như vậy, nhưng hễ sao mỗi khi nghĩ đến chết thì thấy rờn rợn và hơi lo một chút... Sống sao cho đáng sống mới là việc khó. Đời là vô thường!
07 Tháng Mười 2010(Xem: 27941)
Kính nguyện cầu Đấng Thiên Thựợng Đế tối cao và Hồn thiêng sông núi phù hộ cho toàn dân Việt sớm có ngày "đắc lộ thanh vân", đưa nước Việt lên đỉnh đài vinh quang thịnh trị ngàn đời.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 22673)
Chúng ta thường đi tìm một cái gì bên ngoài để mang lại cho mình hạnh phúc như vật chất, nhà cửa, xe hơi, máy móc, tiện nghi, … hoặc tình cảm gia đình, thân quyến, bạn bè, người yêu, … hoặc danh vọng, địa vị, lý tưởng. Ta khát khao tìm kiếm vì tưởng mình nghèo nàn, thiếu thốn, tâm luôn phóng ra ngoài chạy theo trần cảnh. Trong kinh Pháp Hoa kể thí dụ đứa cùng tử suốt đời đi ăn xin vì không biết trong túi mình có viên ngọc quý, đến khi được người bạn nhắc tỉnh ngộ lấy ngọc ra xài liền hết đói khổ.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 18871)
Tháng 8-1999, tôi dọn nhà đến một căn phòng mới mướn. Trên ngăn kệ cao của closet, người mướn trước để sót lại một xấp “hồi ký” dầy 27 trang viết tay. Đêm đầu tiên ở phòng trọ mới, tôi đọc đoạn “hồi ký” bi hùng đó với nỗi niềm thương cảm không tả xiết: Thương cảm cho một danh tướng trong bước đường cùng của vận nước đen tối; thương cảm cho phu nhân và 2 người con của Tướng tuẫn tiết và thương cảm vị sĩ quan trẻ, có lẽ là Chánh Văn Phòng của vị tướng anh hùng, tức tác giả của đoạn “hồi ký” nầy.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 19703)
Lần nầy, bà Hoa quyết định tự tay đem hộp tro xương ông chồng về tận Việt Nam. Bà sợ thất lạc thêm lần nữa, thì tấm lòng hoài.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 23249)
Người chết lâu rồi , người còn ở lại Từ cuối chân mây đêm bấc lạnh lùng Ngày hiển thánh cả giống nòi mong mỏi Của những linh hồn hữu thủy hữu chung
06 Tháng Mười 2010(Xem: 19783)
Tôi chắc chồng tôi cũng nuối tiếc như tôi và đang chờ tôi đi với anh. Chúng tôi phải nối tiếp lại những ngày hạnh phúc ngắn ngủi xa xưa. Tôi không thể sống mãi trong cô đơn để run sợ trước những ám ảnh của dĩ vãng và những nhung nhớ khôn nguôi người chồng mà tôi mãi mãi yêu thương như buổi đầu gặp gỡ!!
06 Tháng Mười 2010(Xem: 21661)
Cổ nhân cũng đã có câu “ngu si hưởng thái bình”, hay là ta cứ an phận thủ thường, con gái thì mong trời sinh ra đừng quá đẹp, con trai thì đừng có quá tài ba. Còn giàu có bạc muôn không ham, chỉ mong đừng chạy gạo từng ngày. Cứ làng nhàng là xong, không ai thèm muốn, đố kỵ, ganh ghét, nghĩ chuyện đời: “Giàu như người ta cơm ngày ba bữa, đói như mình đây cũng đỏ lửa ba lần.”
05 Tháng Mười 2010(Xem: 19562)
hôm nay ngồi viết lại những hàng chữ này như được thắp nén hương trang trọng cho chị, thưa chị Nở.