2:38 CH
Thứ Năm
28
Tháng Ba
2024

THÀ THẮP LÊN MỘT NGỌN NẾN - CHU THẬP

17 Tháng Mười Hai 201112:00 SA(Xem: 22223)
ngonen-large-content


 Tháng 12 mỗi năm, tôi có nhiều Lễ Giáng Sinh để mừng.

Trước hết, dĩ nhiên, phải nói đến Lễ Giáng Sinh trong các siêu thị. Chỗ nào cũng thấy có Ông già Noel và Cây thông Giáng Sinh. Chỗ nào cũng thấy bán hạ giá. Dù chỉ vào các siêu thị để nghe nhạc Giáng Sinh, hòa mình với đám đông đi mua sắm hay chuẩn bị quà cáp cho nhau, tôi cũng thấy đủ vui rồi. Đây là Lễ Giáng Sinh mà bất luận thuộc văn hóa, ngôn ngữ, phái tính và nhứt là tôn giáo nào, ai cũng đều tham gia mừng cả. Rõ ràng là ông Già Noel hay Santa Claus không có kỳ thị. Tôi tin rằng dù cho Chúa Kitô không còn “giáng sinh” nữa, và ngay cả dù ngày nay người ta thường hay “làm lơ” ý nghĩa đích thực của Giáng sinh thì Lễ Giáng Sinh vẫn cứ còn đó!

Lễ Giáng Sinh thứ hai mà năm nào tôi cũng mừng là buổi tiệc trong khu xóm của tôi. Tôi không biết có bao nhiêu người theo Kitô giáo, nhưng năm nào mọi cư dân trong cái xóm nhỏ của tôi cũng đều gặp nhau trong một bữa tiệc đơn sơ mà thực đơn gồm các món do mỗi người tự đóng góp. Mục đích chính không phải là ăn uống, mà là để ít nhứt mỗi năm một lần, mọi người trong xóm “nhận diện” nhau và cố gắng nhớ tên nhau để khỏi lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia. Chính nhờ mấy cái lễ Giáng Sinh này mà tôi đã thuộc được tên của hầu hết mọi cư dân trong khu xóm. Ra ngõ, được ai đó gọi đúng tên và nhứt là chính mình gọi được tên của ai đó cũng đã là một món quà Giáng Sinh lớn đối với tôi.

Kế đó, không thể thiếu sót được là Lễ Giáng Sinh trong gia đình tôi. Trong năm, thỉnh thoảng cũng có những cuộc gặp gỡ trong hàng quán hay trao đổi với nhau trên điện thoại. Nhưng “hơi ấm” của tình gia đình chỉ thực sự có trong Ngày Giáng Sinh mà thôi. Lễ Giáng Sinh thiết yếu vẫn là lễ của Gia đình.

Nhưng với riêng tôi là một tín hữu Kitô, thì lễ Giáng Sinh quan trọng nhứt vẫn là Lễ “Christmas”, tức “Lễ của Chúa Kitô” được cử hành như một nghi thức tôn giáo. Không có lễ tôn giáo thì mọi thứ “lễ lạc” khác đều vô nghĩa. Chính vì tầm quan trọng của Ngày Lễ này mà hằng năm Giáo hội của tôi dành gần cả tháng trời để chuẩn bị. Thời gian chuẩn bị ấy thường được gọi là “Mùa Vọng”. Vọng là hy vọng, là chờ đợi. “Mùa Vọng” là nói theo tiếng Việt. Còn trong các ngôn ngữ Tây phương bắt nguồn từ tiếng Latin thì mùa chuẩn bị Lễ Giáng Sinh được gọi là “Mùa Đến” (Adventus, Advent hay Avent). Kết hợp ngôn ngữ Tây phương với tiếng Việt, tôi hiểu được rằng thời gian chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh là Mùa chuẩn bị tinh thần để đón rước Chúa Kitô là “Đấng Đang Đến”. Đây là điểm giáo lý nòng cốt mà năm nào trong các thánh lễ Mùa Vọng, các linh mục cũng nhắc nhở để qua đó mời gọi các tín hữu chúng tôi luôn trong tư thế sẵn sàng để nhận biết và đón tiếp Ngài là Đấng đang đến trong mọi biến cố, hoàn cảnh, con người và từng phút giây của cuộc sống. Luôn tỉnh thức như thế quả là một thách đố quá lớn đối với tôi. Cứ ngẫm nghĩ và “xét mình”, quả thực tôi thấy không biết bao nhiêu lần Ngài đã “đi qua” mà tôi không nhận ra hay cố tình không muốn nhận biết hoặc ngay cả khước từ Ngài.

Tôi nhận ra thái độ của mình trong nhân vật Đại phán quan trong quyển tiểu thuyết có tựa đề “Anh em nhà Karamazov” của văn hào Nga Fyodor Dostoyeski vào thế kỷ 19. Bối cảnh của câu chuyện là những vụ xử án của Tòa Điều Tra vào thời Trung cổ tại Âu Châu. Tác giả cho Chúa Kitô “đến” tại thành phố Sevilla, Tây ban nha, chỉ một ngày sau khi có 100 người bị kết án là “lạc giáo” và bị đưa lên giàn hỏa thiêu. Tác giả viết: “Mặt trời yêu thương bùng cháy trong trái tim Ngài” khi Ngài đi qua giữa dân chúng với một nụ cười cảm thông vô biên. Tất cả mọi người đều nhận ra Ngài; họ khóc lóc và hôn từng bước chân Ngài đi qua. “Trẻ em rải hoa trên lối đi của Ngài; chúng ca hát và hô lớn “Hosanna”.

Chúa Giêsu đi ngang qua một nhà thờ chính tòa khi người ta khiêng vào đó quan tài của một thiếu nữ 17 tuổi. Người mẹ của cô gái đến sụp lạy dưới chân Ngài và van nài: “Nếu Ngài là Chúa Giêsu, xin hãy làm cho con tôi được sống lại”. Ngài đưa mắt nhìn vào thi hài bất động với tất cả sự cảm thương và thốt lên: “Hãy trỗi dậy”. Lập tức cô gái ngồi dậy, bước ra khỏi quan tài, trên tay cầm một bó hoa hồng trắng.

Chính ngay lúc đó, vị đại phán quan là một vị hồng y già 90 tuổi cũng đi ngang qua nhà thờ chính tòa. Do tận mắt chứng kiến cảnh người chết sống lại cho nên ông ra lệnh bắt giữ Chúa Giêsu. Đêm hôm đó, ông vào nhà tù để gặp gỡ Tù Nhân. Vị đại phán quan nhìn rất lâu vào mặt Chúa Giêsu, rồi lên tiếng hỏi: “Có phải Ngài không?” Nhưng Người Tù chưa kịp trả lời thì ông lại nói: “Thôi, đừng nói gì cả. Dù thế nào thì ta cũng biết Ngài muốn nói gì rồi. Và Ngài không có quyền thêm bất cứ điều gì vào những gì Ngài đã nói lúc sinh thời. Tại sao Ngài trở lại để xen vào chuyện của chúng tôi?”

Vị hồng y đại phán quan đã độc thoại rất lâu trước mặt Chúa Giêsu và đe dọa sẽ đưa Ngài lên giàn hỏa thiêu bởi vì Ngài là “kẻ lạc giáo độc hại nhứt trong những kẻ lạc giáo”. Nhưng vị hồng y già không cảm thấy thoải mái lắm bởi vì “Người Tù” lúc nào cũng nhìn thẳng vào mắt ông, chăm chỉ lắng nghe mà cũng chẳng muốn nói một lời nào. Ông muốn cho Tù nhân nói một lời nào đó, dù là một lời cay đắng hay khủng khiếp. Nhưng Tù Nhân bỗng tiến gần đến Cụ Già và không nói không rằng, đặt một cái hôn lên đôi môi vô cảm của ông. Ông rùng mình. Một cái gì đó làm cho khóe miệng ông co giựt. Ông lùi lại phía trước, mở cửa ngục và nói với Chúa Giêsu: “Xin Ngài hãy đi và đừng trở lại nữa... Đừng bao giờ, đừng bao giờ trở lại nữa. ” (Geoffrey Plant, Tell Me a Story, Harper Collins religious, Australia 2000, trg 45-46)

Đừng bao giờ, đừng bao giờ trở lại nữa”: có lẽ đây cũng là câu nói tàn nhẫn mà biết bao nhiêu lần, vì không tỉnh thức hay vì ác ý, tôi cũng đã vô tình thốt lên với “Đấng Đang Đến” dưới hình dáng của vô số những người mà tôi gặp gỡ mỗi ngày, nhứt là những người cần được tôi giúp đỡ và cảm thông.

Tôi vẫn thường gẫm suy về câu chuyện được chuyên gia tâm lý Scott Peck ghi lại trong cuốn sách nổi tiếng có tựa đề “Con Đường Ít Được Đi” (The road less travelled, do nhà xuất bản Random House phát hành năm 1978). Theo câu chuyện, tại một vùng hẻo lánh nọ, có một tu viện rất nổi tiếng. Cuộc sống thánh thiện của các tu sĩ đã thu hút được rất nhiều người. Không bao lâu, tu viện biến thành một trung tâm hành hương. Nhưng không rõ vì một nguyên nhân nào đó, số người tìm đến tu viện ngày càng thưa thớt. Vị tu viện trưởng mới tìm đến một giáo trưởng Do thái thông thái để vấn kiến. Sau khi lắng nghe câu chuyện, giáo trưởng Do thái mới nói với bề trên tu viện rằng “một tu sĩ trong cộng đồng của ngài là Đấng Cứu Thế”. Vị tu viện trưởng liền tức tốc trở về tu viện và tập trung các tu sĩ lại để loan báo cái tin khủng khiếp đó. Kể từ hôm đó, mọi tu sĩ đều bắt đầu nhìn và đối xử với người bên cạnh mình như Đấng Cứu Thế. Cuộc sống trong tu viện thay đổi hẳn và dĩ nhiên cũng được lan truyền ra bên ngoài. Khách hành hương bắt đầu trở lại tu viện.

Nhìn thấy, tôn trọng và yêu thương mỗi một tha nhân như “Đấng Cứu Thế”: đây chính là “chìa khóa” của Mẹ Têrêxa Calcutta đã và đang dùng để xoa dịu được phần nào nỗi khổ đau của vô số người dân nghèo khổ tại Ấn độ và trên khắp thế giới. Người nữ tu này không phải là một nhân viên xã hội lại càng không phải là một chính trị gia, một nhà kinh tế học hay một chuyên gia thảo kế hoạch. Một số người trách cứ Mẹ Têrêxa chỉ giải quyết vấn đề trong đoản kỳ, mà không tìm cách chữa trị căn bệnh tự trong gốc rễ. Chúng ta thường nghĩ rằng những thách đố “toàn cầu” chỉ có thể giải quyết được bởi những nhà lãnh đạo có viễn kiến, những tài nguyên vô giới hạn và những cuộc họp thượng đỉnh. Thật ra, mỗi người trong chúng ta, ai cũng có thể đóng góp để làm cho thế giới này trở thành một nơi tốt đẹp và đáng sống hơn. Chúng ta không cần phải đóng góp bằng những chương trình vĩ đại hay tham gia một phong trào vĩ đại, mà bằng những hành động nhỏ mỗi ngày và những quyết định qua đó, cùng với hành động của triệu triệu người khác trên thế giới, có thể thay đổi bộ mặt thế giới. Đây chính là niềm xác tín của Mẹ Terexa Calcutta, một niềm xác tín được xây dựng trên niềm tin là: bất cứ nghĩa cử nào, dù nhỏ bé đến đâu, được làm cho tha nhân cũng chính là làm cho Đấng Cứu Thế.

Tôi đặc biệt nghĩ đến người nữ tu được trao tặng Giải Nobel Hòa bình năm 1979 này mỗi lần nhìn thấy những gói quà Giáng Sinh được mang đến nhà thờ trong các ngày chúa nhựt Mùa Vọng. Năm nay, giáo xứ nơi tôi thường đi lễ sẽ gởi những món quà Giáng Sinh này đến những gia đình nghèo tại Mount Druit, miền Tây Sydney. Nhìn những gói quà với đủ mọi nhu yếu phẩm kèm theo được gói ghém cẩn thận, tôi đoán được rằng những người trao tặng muốn đặt vào đó tất cả tình thương của mình dành cho những người kém may mắn. Tôi chợt nhớ đến câu nói rất quen thuộc của Mẹ Têrêxa Calcutta: “Hãy làm một cái gì đẹp cho Thiên Chúa”. Đây là câu nói đã được ký giả người Anh Malcolm Muggeridge mượn làm tựa đề cho một cuốn sách để giới thiệu cho thế giới về Mẹ Têrêxa và công cuộc từ thiện của các nữ tu Dòng Thừa Sai Bác Ái do Mẹ thành lập. Hiện nay các nữ tu của Mẹ đang có mặt tại 123 nước trên thế giới. Họ ưu tiên phục vụ cho những người cùng khổ và những thành phần bị đẩy ra bên lề xã hội như các bệnh nhân phong cùi, những người mắc bệnh Aids.

“Triết lý” và chủ trương của Mẹ Têrêxa vẫn tiếp tục bị chỉ trích. Luận điệu quen thuộc vẫn là: Mẹ chỉ giúp cho người nghèo được sống cầm hơi chứ không nhỗ tận gốc rễ căn nguyên của sự nghèo đói. Chủ trương của Karl Marx và chủ nghĩa cộng sản thì hoàn toàn ngược lại: Họ chủ trương giải quyết tận căn nguyên. “Rằng hay thì thật là hay”. Nhưng rõ ràng cái thiên đường cộng sản chỉ là một thứ không tưởng mỵ dân bằng những chiếc bánh vẽ. Biết bao lần trong lịch sử đã chứng minh rằng con đường dẫn xuống hỏa ngục thường được lát toàn bằng những “thiện ý”! Ngày nay, chủ nghĩa cộng sản đã bị quăng vào hố rác của lịch sử, nhưng những ý tưởng, chương trình và kế hoạch “vĩ đại” vẫn còn đó và những mục tiêu lớn được đề ra vẫn mãi mãi là những “chữ chết” trong các tuyên ngôn quốc tế. Một hành động nhỏ luôn vĩ đại hơn một lý thuyết hay ho.

Trong các thánh lễ Mùa Vọng bằng Anh ngữ, tôi thấy ở mỗi đầu thánh lễ, vị linh mục chủ tế có thắp lên một ngọn nến được đặt trên một vòng hoa. Tôi không rõ nguồn gốc của vòng hoa và việc đốt nến này. Đây có lẽ chỉ là truyền thống riêng của các dân tộc “Anglo Saxon”. Mùa Vọng ở các nước Tây phương thường cũng đã là Mùa Đông. Giữa mùa Đông lạnh lẽo, một ánh nến được đốt lên như để hâm nóng niềm hy vọng của con người. Giữa mùa giá rét, hoa của hy vọng vẫn có thể nở rộ.

Riêng với tôi, ý tưởng thường xuất hiện trong đầu tôi mỗi khi tham dự vào nghi thức đốt nến ở đầu thánh lễ vẫn là câu nói mà ông Peter Benenson, một luật sư người Anh sáng lập Tổ chức Ân Xá Quốc Tế đã nói tại một buổi lễ cử hành Ngày Quốc Tế Nhân Quyền 10 tháng 12 năm 1961: “Thà đốt lên một ngọn nến hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối. ” (better to light one candle than to curse the darkness)

Mỗi khi gặp gỡ một ánh mắt nhìn thân thiện, tôi luôn cảm thấy như được sưởi ấm. Và tôi tin rằng ai cũng có cùng một cảm nhận tương tự từ những cử chỉ thân ái nhỏ nhặt từ người khác. Thực tình mà nói, ngọn nến không khó để thắp lên, vấn đề là tôi có đủ can đảm bỏ bớt thì giờ dành riêng cho mình để bước ra hòa mình và chia sẻ với người khác hay không.

Một Lễ Giáng Sinh trọn vẹn không thể không có thật nhiều những ngọn nến yêu thương như thế.
CHU THẬP( VL)
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
01 Tháng Năm 2011(Xem: 18435)
Rải tro theo gió... trên đỉnh đèo Hải Vân... ý nguyện của người đã khuất gợi lên trong tôi hình ảnh vừa bi hùng lại vừa lãng mạn, như là sự kết hợp tuyệt vời giữa mối tình của viên dũng tướng với cô con gái đầu lòng của nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.
27 Tháng Tư 2011(Xem: 19583)
Tôi không nói được gì hết, chỉ gục đầu vào vai vợ tôi rồi bật khóc . Vợ tôi chưa biết những gì đã xãy ra nhưng chắc nàng đoán được rằng tôi phải đau khổ lắm mới phát khóc như vậy. Cho nên nàng vừa đưa tay vuốt vuốt lưng tôi vừa nói, giọng đầy cảm xúc :« Ờ…Khóc đi anh ! Khóc đi ! »
23 Tháng Tư 2011(Xem: 18037)
Tôi ngồi đó để tưởng nhớ nước Việt Nam Cộng Hòa thân yêu của tôi. Tôi để hình tôi trên bàn thờ là coi như mình đã chết theo với nước Việt Nam Cộng Hòa của tôi. Tôi chỉ sống lây lất, lo nhang khói cho đồng đội, cho cha mẹ, vợ con
03 Tháng Tư 2011(Xem: 19699)
Trong niềm bồi hồi xúc động đến rưng rưng lệ khi đọc, chắc chắn quý độc giả không thể không biết ơn những người lính VNCH, Mỹ, Úc... đã đổ máu bảo vệ Miền Nam trước làn sóng xâm lăng của cộng sản trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam.... *
23 Tháng Ba 2011(Xem: 20136)
tưởng đã được giải quyết, phân tán người Việt Nam tỵ nạn trên nước Mỹ, nhưng không ngờ Xe đò Hoàng đơn thân độc mã mỗi ngày một chuyến kéo hai thành phố đông dân cư Việt Nam lại càng gần với nhau hơn nữa.
21 Tháng Hai 2011(Xem: 19841)
Già thì già, họ vẫn cảm thấy hạnh phúc – hạnh phúc hơn một tỷ người khác – cho dù hạnh phúc đó vẫn được họ đếm từng ngày sau mỗi buổi sớm mai thức dậy…
10 Tháng Hai 2011(Xem: 18518)
Tôi nhớ ơn anh chị, và cả vợ chồng anh Hy, chịu đựng được chúng tôi, mà không đấm cho vỡ mồm, hộc máu mũi. Càng lâu, tôi càng thấm thía cái câu ' Bầu bí một giàn'
04 Tháng Hai 2011(Xem: 19464)
Thế đó, họ bán, họ mua vừa như thật, vừa như “chơi” nhưng ai cũng hăm hở, náo nức. Dường như mỗi người đi chợ đang “bán”, đang “mua” cho mình một nỗi nhớ quê nhà vời vợi.
02 Tháng Hai 2011(Xem: 21364)
Hương thơm của gạo, vị ngọt của cơm lẩn với cát sạn tựa như cuộc đời của những quân nhân QLVNCH nói chung, SVSQTĐ nói riêng đã tự hào vào ngày mãn khóa sau mấy tháng quân trường mồ hôi thử thách đó là hương thơm của gạo. Để rồi chuẩn bị dấn thân vào cuộc đời đầy gian khổ hiểm nguy sống chết khó lường
28 Tháng Giêng 2011(Xem: 20997)
Họ gặp nhau và nhận ra nhau. Mới đầu, Hà Giang ôm chầm lấy Đôn mà khóc nức nở. Cô quên mất anh đang là một vị thầy tu. Xúc động nhất là khi Hà Giang cho anh biết Lam Khê chính là con của anh. Hai cha con họ ôm lấy nhau thật lâu và cả hai đầm đìa nước mắt.
21 Tháng Giêng 2011(Xem: 19739)
Hiện tại chúng tôi đang sống tràn trề hạnh phúc. Mùa xuân của cuộc đời tuy đến muộn nhưng chúng tôi bằng lòng lắm với những gì mình đang có, đang sống. Thiên đường có thật anh Hoàng ạ! Và chúng tôi đang tắm trong suối nguồn tươi mát của Thiên Đường.
16 Tháng Giêng 2011(Xem: 20178)
Thành phố lên đèn, tôi vật vờ vô định thoáng nghe bên tai tiếng dương cầm giai điệu bản "Giao hưởng số chin, cung rê thứ" của L.V. Beethoven mà tôi học ngày nào. Hiện tại, tôi chơi nhạc đám ma. Cái chết - quy luật tất yếu giúp tôi sinh tồn, các giá trị nghệ thuật cao quý chỉ còn là hoài niệm!
02 Tháng Giêng 2011(Xem: 21890)
Mũi súng AK thúc vào cạnh sườn, người vệ binh chắc cũng ngạc nhiên không hiểu sao bỗng dưng tôi đứng như trời trồng giữa lộ. Anh quắc mắt nhìn tôi dò hỏi, tôi không nói gì, im lặng nhập vào dòng tù. Nước mắt chảy dài trên hai má hóp, tôi bước đi như kẻ mộng du ...
07 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20692)
Trong cuộc chiến Việt Nam, những chàng pilot nổi tiếng hào hoa ở thành phố. Là thần tượng của các cô con gái đẹp. Nhưng có lẽ ít ai biết rằng, những chàng trai trẻ ấy lại là những chiến sĩ rất hào hùng trên khắp các chiến trường. Bao phen xem cái chết tựa lông hồng.
05 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 21699)
Lâu nay, khá đông người cho rằng thi sĩ Hàn Mạc Tử và nhà giáo kiêm cư sĩ Hoàng Thị Kim Cúc từng có một tình yêu đôi lứa. Lắm sách báo ghi nhận như vậy. Ngay cả lối sống khá đặc biệt của Kim Cúc – suốt đời độc thân, làm thơ tặng Hàn, chẳng chuyện trò điều này với người trong nhà… – càng khiến dư luận nghĩ vậy.
02 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20149)
Hầu hết bạn bè tôi, nếu còn sống sót sau cuộc chiến tang thương đó, kẻ đã phải ra đi trong loạn lạc, ly tan, người thì được ông bạn đồng minh phản bội năm xưa, can thiệp với kẻ cựu thù cho "ra đi trong vòng trật tự" sau nhiều năm bị đày đọa ngục tù, vợ con nheo nhóc, để giờ này mỗi người trôi dạt một phương, mang theo những vết thương không lành được ở trong lòng. Biết đến khi nào chúng tôi mới đuợc như những con chim trane đang tụ tập ca hót líu lo ngoài kia, trươc giờ bay xuống phương nam?
17 Tháng Mười Một 2010(Xem: 20943)
Một câu chuyện thật dí dỏm. Câu chuyện phần nào đã gợi nhớ đến một quảng đời thơ ấu thật êm đềm, hoa bướm ở vùng quê . Phải chi không có biến cố tháng tư 75, cuộc sống của những người dân miền nam hiền hòa chắc chắn là mãi mãi thanh bình, thịnh vượng, và an lành như tác giả "Lấy vợ miền quê" đã mô tả rất chân thật trong câu chuyện
11 Tháng Mười 2010(Xem: 19287)
Bây giờ, nhìn chú Ba nằm đó, tôi lại nhớ câu nói cuối cùng của chú: “Cứ để lá cờ ở đó, trong đầu óc của chú sẽ nhớ mãi hình ảnh lá cờ VNCH tung bay trong gió. Sau này, lá cờ sẽ ra sao? Để tương lai trả lời.”
08 Tháng Mười 2010(Xem: 20133)
Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo Tỉnh lộ 7 ngày xưa, mang theo trong lòng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng cả bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nhìn núi rừng hai bên đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn nữa...
08 Tháng Mười 2010(Xem: 21872)
Mọi người đều đến cõi đời nầy với hai bàn tay trắng, thì lúc ra đi cũng chỉ với hai bàn tay trắng mà thôi. Ai ai cũng đều biết như vậy, nhưng hễ sao mỗi khi nghĩ đến chết thì thấy rờn rợn và hơi lo một chút... Sống sao cho đáng sống mới là việc khó. Đời là vô thường!
07 Tháng Mười 2010(Xem: 27841)
Kính nguyện cầu Đấng Thiên Thựợng Đế tối cao và Hồn thiêng sông núi phù hộ cho toàn dân Việt sớm có ngày "đắc lộ thanh vân", đưa nước Việt lên đỉnh đài vinh quang thịnh trị ngàn đời.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 22571)
Chúng ta thường đi tìm một cái gì bên ngoài để mang lại cho mình hạnh phúc như vật chất, nhà cửa, xe hơi, máy móc, tiện nghi, … hoặc tình cảm gia đình, thân quyến, bạn bè, người yêu, … hoặc danh vọng, địa vị, lý tưởng. Ta khát khao tìm kiếm vì tưởng mình nghèo nàn, thiếu thốn, tâm luôn phóng ra ngoài chạy theo trần cảnh. Trong kinh Pháp Hoa kể thí dụ đứa cùng tử suốt đời đi ăn xin vì không biết trong túi mình có viên ngọc quý, đến khi được người bạn nhắc tỉnh ngộ lấy ngọc ra xài liền hết đói khổ.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 18773)
Tháng 8-1999, tôi dọn nhà đến một căn phòng mới mướn. Trên ngăn kệ cao của closet, người mướn trước để sót lại một xấp “hồi ký” dầy 27 trang viết tay. Đêm đầu tiên ở phòng trọ mới, tôi đọc đoạn “hồi ký” bi hùng đó với nỗi niềm thương cảm không tả xiết: Thương cảm cho một danh tướng trong bước đường cùng của vận nước đen tối; thương cảm cho phu nhân và 2 người con của Tướng tuẫn tiết và thương cảm vị sĩ quan trẻ, có lẽ là Chánh Văn Phòng của vị tướng anh hùng, tức tác giả của đoạn “hồi ký” nầy.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 19606)
Lần nầy, bà Hoa quyết định tự tay đem hộp tro xương ông chồng về tận Việt Nam. Bà sợ thất lạc thêm lần nữa, thì tấm lòng hoài.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 23152)
Người chết lâu rồi , người còn ở lại Từ cuối chân mây đêm bấc lạnh lùng Ngày hiển thánh cả giống nòi mong mỏi Của những linh hồn hữu thủy hữu chung
06 Tháng Mười 2010(Xem: 19692)
Tôi chắc chồng tôi cũng nuối tiếc như tôi và đang chờ tôi đi với anh. Chúng tôi phải nối tiếp lại những ngày hạnh phúc ngắn ngủi xa xưa. Tôi không thể sống mãi trong cô đơn để run sợ trước những ám ảnh của dĩ vãng và những nhung nhớ khôn nguôi người chồng mà tôi mãi mãi yêu thương như buổi đầu gặp gỡ!!
06 Tháng Mười 2010(Xem: 21543)
Cổ nhân cũng đã có câu “ngu si hưởng thái bình”, hay là ta cứ an phận thủ thường, con gái thì mong trời sinh ra đừng quá đẹp, con trai thì đừng có quá tài ba. Còn giàu có bạc muôn không ham, chỉ mong đừng chạy gạo từng ngày. Cứ làng nhàng là xong, không ai thèm muốn, đố kỵ, ganh ghét, nghĩ chuyện đời: “Giàu như người ta cơm ngày ba bữa, đói như mình đây cũng đỏ lửa ba lần.”
05 Tháng Mười 2010(Xem: 19455)
hôm nay ngồi viết lại những hàng chữ này như được thắp nén hương trang trọng cho chị, thưa chị Nở.