Tôi gặp Dodge trước một shop đồ cũ trong khu Chula Vista. Lúc đó, anh ngồi dềnh dàng trên chiếc motorcycle, mặc bộ đồn rằn ri Thủy Quân Lục Chiến, trên nắp túi áo còn viền thêm lá cờ vàng ba sọc đỏ Việt Nam.
- Hi my friend ! Are you Vietnamese ?
Bằng nụ cười thật rạng rỡ, bằng cái bắt tay thật chặt, anh thân ái choàng vai tôi, khi nhận ra nhau chiến hữu- từng tham chiến trên chiến trường Việt Nam ngày trước. Dodge nói tiếng Viêt rất sõi. Anh “ xổ” cả tiếng Đan Mạch rất lính, nghe “ đã” lổ tai. Nhờ thế tôi hiễu được anh, đo lường được tấm lòng chân thật của anh đối với người lính Việt Nam Cộng Hòa.
Anh huyên thuyên về quá khứ, một mối tình Việt Nam, về các cứ nổi ở vùng U Minh đầy hãi hùng. Qua anh, tôi chợt sống lại thời trai tráng của mình, những lần nhậu rượu đế trên sông, những lúc dương đông kích tây, dọc ngang khắp chân trời góc bể…
Nói chuyện với nhau một chập, chúng tôi từ giả ra về. Trước khi chia tay, anh chìa cho tôi tấm phone card có dòng chữ : Paralyzed Veterans of America, và bảo rằng, anh đang phục vụ thiện nguyện ở đó. Cơ quan nầy, tôi chẳng lạ chi, bởi mỗi năm tôi đều ký check biếu tặng, coi như một cách thế để tạ ơn nước Mỹ, tạ ơn các Cựu Chiến Binh- những người đã vì chính nghĩa tự do, hy sinh đi phần thân thể họ.
Bẳng đi một thời gian khá lâu, một hôm, tôi được cú đìện thoại của Dodge. Anh hẹn tôi tới một tiệm phở Việt Nam để điềm tâm. Khi đến nơi, tôi đã thấy Dodge ngồi chờ sẵn bên cái bàn kê sát khung kính , có thể ngó ra đại lộ Elcajon, để nhìn thiên hạ qua lại trong ánh nắng chói chang.
Nhìn cách thế Dodge cầm đủa gọn gàng, xì xụp ăn ngon lành các gia vị Việt Nam, người ta cứ ngỡ anh là người Việt chính tông, sành điệu với món phở độc đáo này. Tiệm phở từ ngày đến đây, tôi chưa thể xác đoán được nơi nào nấu ngon ? Vậy mà Dodge biết. Anh phân tích cả chất liệu nước lèo: mùi thơm đặc biệt của ngò, quế - góp phần làm đậm đà hương vị tô phở. Ăn xong, anh lặng lẽ rút ra tờ báo. Những hàng chữ đậm nét lăn lộn trước mắt tôi: bà Ginetta Sagan, người tranh đấu cho tù nhân cải tạo Việt Nam vừa mệnh phần. Vậy là, lại thêm một người có tấm lòng với chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa ra đi…
Bà Ginetta Sagan là người Ý, sinh tại Milan. Trong thế chiến thứ II bà đã gia nhập lực lượng kháng chiến chống phát xít ở miền Bắc nước Ý. Năm 1945 bà bị bắt, rồi bị địch tra tấn và cưỡng hiếp tàn bạo. Cuối cùng chúng đưa bà đi hành quyết, nhưng kháng chiến quân đã kịp thời giải thoát ngay lúc bà vừa lên pháp trường. Vào cuối thập niên 1960 tại Washington DC, bà Sagan bắt đâu làm việc thiện nguyện cho tổ chức Ân Xá Quốc Tế. Sau đó, bà sáng lập thêm tổ chức Aurora Foundation, một tổ chức chuyên chú tâm đến những trại cải tạo tại Việt Nam sau chiến tranh. Bà cũng được tưởng thưởng huy chương cao quý nhất của Mỹ : huy chương tự do của Tổng Thống. Bà đã qua đời ngày 25 tháng 8 năm 2000 thọ 75 tuổi.
Bà Sagan đã làm một bản phúc trình dài năm 1983, tố cáo trước quốc tế về chế độ lao tù dã man của VC, về nhưng vụ vi phạm nhân quyền, nhất là đối với các tù binh – lúc trước, họ từng là chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa. Tôi cúi đầu trước bàn ăn, thành kính tưởng tiếc bà. Tôi nhớ lại mùa nước lũ 1978 ở các trại cải tạo Đồng Tháp Mười. Lúc nước dâng cao điểm, chúng tôi phải trèo lên nóc trại, bó gối nương thân với : rắn, rít, chuột và các loại sâu bọ khác…VC nhất định không di chuyển tù binh đi tới chổ khác . Họ muốn chúng tôi chết dần mòn trong đói khát và lạnh lẽo của mùa lũ kinh hoàng. Tôi nhớ lại từng lát khoai mì mốc meo và bạc thếch nơi vùng núi đồi Xuyên Mộc. Khoai mì thay cơm. Khoai mì nuôi tù nhân từ năm nầy đến năm khác. Ăn khoai mì để đốn cây phá rừng, để đào mương xẻ rạch… cho tới khi kiệt sức tàn hơi, thi thể được họ bố thí một manh chiếu nát, đủ vùi nông dưới ba tấc đất. Tôi nhớ lại hàng triệu người VN lũ lượt bỏ nước ra đi. Trên những chiếc ghe mong manh giữa biển khơi mịt mùng, đối đầu với bao nguy hiểm đang đe doạ đến tính mạng. Hàng triệu ngườì VN thà sống lầm than trong các vòng rào của các trại tị nạn, còn hơn là bị trả về quê hương đau khổ- nơi mà nhân phẩm con người bị chà đạp một cách tận cùng. Tôi nhớ lại Dodge một cựu chiến binh Mỹ trong bộ đồ rằn ri Thủy Quân Lục Chiến đã bạc màu. Trên nắp túi áo phong sương, anh vẫn dành riêng một chổ trang trọng cho lá cờ vàng ba sọc đỏ lẫm liệt. Nhiều người thấy là lạ, hỏi Dodge, tại sao ông luôn mang lá cờ đó trên người mãi vậy ? Anh lẳng lặng cởi toạc chiếc áo, bày ra một khoảng da thịt xám xịt bị băm nát bởi những mảnh đạn B.40. Tôi còn nhớ, thuở xưa, sách địa lý giáo khoa đã ghi rành rành: VN là một tiền đồn ngăn chận làn sóng đỏ tràn lan Đông Nam Á. Dodge và đồng đội đến VN cùng với chúng tôi bảo vệ tiền đồn, bảo vệ tự do, bảo vệ chính nghĩa. Đồng đội Dodge đã anh dũng phơi thây khắp chiến trường VN, cũng đã nằm gai nếm mật trong các trại tù Cộng Sản từ Nam ra Bắc. Và chúng tôi- khi tiền đồn chống cộng bị vỡ toang từ năm 1975 – chúng tôi trôi giạt khắp nơi, trôi giạt qua Mỹ, cũng chỉ vì muốn tìm kiếm tự do, muốn đi theo chính nghĩa. Chiến tranh VN đã làm đậm nét những trang sử Mỹ. Người Mỹ không thể không biết sự có mặt của chúng tôi trên đất nước nầy. Mới đây, nhân Veterans day, Cựu Chiến Binh Mỹ San Diego đã tổ chức diễn hành với hội Cựu Quân Nhân VNCH ( San Diego ). Buồi diễn hành rất trọng thể, rất ngoạn mục; dưới sự chứng kiến của đông đảo người Mỹ, Việt và các sắc dân khác ở vùng down town. Họ hân hoan reo mừng giữa tiếng kèn trống oai hùng. Họ chạnh lòng nhớ lại thời oanh liệt xa xưa, tình chiến hữu Mỹ - Việt bất diệt.
Chỉ lo thế hệ trẻ nước Mỹ, nếu không chịu khó đọc lịch sử, sẽ có thái độ ngờ ngợ và thờ ơ trước sự có mặt của chúng tôi hôm nay. Người Mỹ, thế hệ trước, phải có trách nhiệm nói cho thế hệ trẻ biết về điều nầy. Nói cho thế hệ trẻ biết về tâm lòng cao đẹp của Dodge, của bà Ginetta Sagan, của Cựu Chiến Binh Mỹ… trước hành động lưu vong tìm kiếm tự do của người Việt, ở hoàn cảnh thảm thương nhầt, trong lịch sử loài người.
Phạm Hồng Ân