9:38 SA
Thứ Năm
28
Tháng Ba
2024

NGUYỄN TẤT NHIÊN - VĨNH HẢO

12 Tháng Mười 201012:00 SA(Xem: 10329)

Nhằm chủ trương giới thiệu đến quý đồng hương những trang anh hùng hào kiệt cùng nhân tài xuất chúng của tỉnh nhà, Ban Biên Tập xin trích đăng bài viết của nhà văn Vĩnh Hảo dành cho cố thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên để quý độc giả biết qua và cùng hãnh diện về những nét tài hoa độc đáo của nhà thơ núi Bửu sông Đồng của chúng ta. BBT.

blank.

Nguyễn Tất Nhiên

Anh nổi tiếng rất sớm. Vì thơ anh đi sớm hơn bước chân còn ngại ngùng bỡ ngỡ của thế hệ trẻ thời ấy trước sự tràn ngập của văn hóa phương Tây, qua hình ảnh người lính viễn chinh Mỹ, và qua phong trào hiện sinh mô phỏng trễ tràng trên đất nước đói nghèo, chiến tranh. Anh mạnh dạn nói được tiếng nói của tình yêu tuổi trẻ với sân trường, kỳ thi, chiến tranh, mất mát, hoài vọng, tuyệt vọng... Chẳng phải sớm gì trong thể loại thơ, mà sớm trong phong cách biểu hiện. Anh dùng thứ ngôn ngữ của thời đại, rất hiện thực, không đẽo gọt; vậy mà thứ ngôn ngữ ấy bỗng nhiên mới, lạ, và được đón nhận nồng nhiệt. Bắt được giọng thơ tươi rói và đầy sức thu hút của anh, một nhạc sĩ tài danh phổ ngay thơ của anh thành nhạc, làm rung động bao trái tim cuồng nhiệt yêu đương thời chiến loạn. Vậy rồi thơ anh cất lên thành cơn sóng lớn, vượt bờ. Không ai mà chẳng biết thơ anh, không ai mà không hát nhạc phổ thơ của anh.

Hãy đọc một số bài thơ nổi tiếng được phổ nhạc mà ai cũng biết; và nên nhớ rằng lúc ấy, Nguyễn Tất Nhiên chỉ mới xấp xỉ ở tuổi hai mươi, để thấy cái tài hoa dị thường của anh:

Khúc Buồn Tình

1. 

Người từ trăm năm

về ngang sông rộng

ta ngoắc mòn tay

...trùng trùng gió lộng

(thà như giọt mưa

vỡ trên tượng đá

thà như giọt mưa

khô trên tượng đá

có còn hơn không

mưa ôm tượng đá)…… 

 

người từ trăm năm

về như dao nhọn

ngọt ngào vết đâm

ta chết âm thầm

máu chưa kịp đổ

(thà như giọt mưa

vỡ trên tượng đá

thà như giọt mưa

khô trên tượng đá

có còn hơn không

mưa ôm tượng đá)

(1970)


Trong tình yêu, thơ anh táo bạo vay mượn những hình ảnh thánh thiện để ví von mình, ví von người tình. Có thể nói lối vay mượn này là bước khai phá có một không hai của anh vào thời ấy, khiến thơ anh càng thêm phần đặc dị, ngời sáng, mà lại gần gũi biết bao với tâm tình giới trẻ.


Ma Sœur

 

đưa em về dưới mưa

nói năng chi cũng thừa

phất phơ đời sương gió

hồn mình gần nhau chưa?

 tay ta từng ngón tay

vuốt lưng em tóc dài

những trưa ngồi quán vắng

chia nhau tình-phôi-thai

xa nhau mà không hay

(hỡi em cười vô tội

đeo thánh giá huy hoàng

hỡi ta nhiều sám hối

tính nết vẫn hoang đàng!)

 em hiền như "ma sœur"

vết thương ta bốn mùa

trái tim ta làm mủ

"ma sœur" này "ma sœur"!

(…)

(1971)

Linh Mục

 

(…)

vì tôi là linh mục

không mặc áo nhà giòng

nên suốt đời hiu quạnh

nên suốt đời lang thang!

 

3.

tín đồ là người tình

người tình là ác quỷ

ác quỷ là quyền năng

quyền năng là tín đồ

tín đồ là người tình

thiêu hủy lầu chuông tôi

(vì tôi là linh mục

giảng lời tình nhân gian!)

(…)

(1970)


Đụng chạm, lôi kéo những biểu tượng linh thiêng, đưa vào thơ và đưa vào tình yêu đời thường. Vậy mà anh chẳng làm mất lòng ai. Người ta vẫn cứ thích thú ca hát lời thơ của anh:

Hai năm tình lận đận

1.

hai năm tình lận đận

hai đứa cùng xanh xao

mùa đông, hai đứa lạnh

hơi thở dài như nhau (?)

hai năm tình lận đận

hai đứa cùng hư hao

(em không còn thắt bính

nuôi dưỡng thời ngây thơ

anh không còn luýnh quýnh

giữa sân trường trao thư!)

hai năm tình lận đận

hai đứa đành xa nhau

(…)

(1972)

Anh thoát ra khỏi những hình ảnh và ngôn ngữ thơ chắt lọc, sang cả quí phái của nền thơ truyền thống. Thơ anh, không cứ là trăng là gió, là bến nước, bờ mây, tóc thề và áo dài bay tha thướt, mái tranh, cây đa hay gốc chuối... (như thể là người thơ cứ suốt đời ở nhà quê, cảnh cũ!) mà thay vào đó là những hình ảnh rất thực của thị thành với "tóc demi garçon", tóc bính, cột điện, với xe đạp, cà phê, cà phê đá, rạp cải lương, nhà ga và toa tàu, mùa thi với văn bằng... Tự ví mình như là một gã ngông cuồng, là người phá phách, là người vô đạo, là sa-tăng ác quỷ... nhưng trên thực tế thì anh rất hiền, và trong tình yêu, thường là người thua cuộc, hoặc tự nguyện chịu thua cuộc. Trách người chỉ là trách nhẹ nhàng. Còn lại là trách mình.

Thơ tình của anh vì vậy mà phổ cập, mà thành của chung. Ai đọc cũng thấy, cũng nghe được nhân dáng và kinh nghiệm của chính mình trong ấy. Từ thứ tình yêu reo vui, nhảy múa theo nhịp chân của "cô Bắc-kỳ nho nhỏ" cho đến tình yêu của người tuyệt vọng... anh nói thay mọi người bằng thánh ca của tình yêu.

Nhưng đặc biệt là lúc khổ đau vì tình, thơ anh chùng xuống, gãy đổ, nát tan... và quả là anh đã đi thật sớm, trước thế hệ của anh, trong sự cảm nhận cũng như lối biểu đạt về tình yêu:

Thiên thu 

sao thiên thu không là xa nhau?

nên mưa xưa còn giăng ngang hồn sầu

tôi đứng như cây cột đèn gẫy gập

và một con đường cúp điện rất lâu!

(…) 

sao thiên thu không là lãng quên?

nên tình xưa còn cháy âm thầm

tôi đứng như căn nhà nám lửa

và những người thân trốn chạy vội vàng!

 (…)

 (1970)

Trong thơ lục bát, anh vẫn theo vần nhịp cũ nhưng lối diễn đạt rất là thảnh thơi, thoải mái, tự nhiên như nói chuyện. Đây, vần lục bát của hơn 30 năm trước:

Nên thời gian ấy ngùi trông

giọt mưa xanh mấy tuổi nàng

tôi nghe lá rụng như vàng áo xưa

hơi tàn tro ấm lần đưa

ba năm khơi lại cũng vừa đủ đau!

sớm, trưa, chiều, tối, ra, vào

người chưa yên nỗi thầm xao xác lòng

nên thời gian ấy ngùi trông

khô như hạt bụi trưa ngừng ngập bay...

 (…)

(1970)

Hôm nay

khi không tình não nùng buồn

gót chân ai bỏ con đường nhớ nhung

gót chân ai nhẹ vô cùng

dẫm lên xác-lá-tôi từng tiếng kêu

gót chân ai bước, nhẹ hều

bước qua tôi, bước, hư nhiều thói quen!

(…)

 (1974)

Đó là Nguyễn Tất Nhiên của tuổi hai mươi, với TÌNH qua tập Thơ Nguyễn Tất Nhiên; và bây giờ hãy đọc Nguyễn Tất Nhiên với TÂM qua Tâm Dung. Tập trước được xuất bản năm 1980 (gom lại những bài thơ cũ trước năm 1975 và một số ít cuối thập niên 70) khi anh mới vượt biên ra hải ngoại; tập sau được xuất bản 9 năm sau đó. Tựa tập thơ là Tâm Dung, bao gồm nhiều bài thơ bắt đầu bằng chữ TÂM (như Tâm khai, Tâm sân, Tâm hoa, Tâm xuân, Tâm hồng, Tâm hương, Tâm mưa, Tâm sương, Tâm ca, Tâm cảm...) được chính tác giả mở đầu bằng một đoạn rất thâm trầm về tư tưởng Phật giáo, khiến người đọc có cảm tưởng là sẽ được đọc một tác phẩm về Thiền vậy.

Nhưng không. Dù mào đầu như thế, dù chọn lựa chủ đề và tựa đề như thế, thơ anh vẫn cứ là thơ, không phải là tập giáo nghĩa khô khan, cứng nhắc. Chỉ khác là anh đã chững chạc hơn (dĩ nhiên!), bớt bông đùa hơn, và trải đều lên những trang thơ là cõi lòng bát ngát của anh.

Tâm nguyệt

từ gót sen hài em hút dấu

sầu tôi như lá thẫn thờ bay

ví dù lá ngập đường em bước

lá cũng xin đừng bận gót ai...

từ mắt chia lòng sông cách núi

sầu tôi như bụi khắp không gian

ví dù bụi ố hoen màu trắng

bụi cũng xin đừng vương mắt xanh...

(…)

 (06/01/1989)

Tâm duyên

(…) 

mùa hạ anh ra đường

thấy mới tinh tất cả

thấy nắng nôi dịu dàng

đang vuốt ve cây cỏ

thấy cây cỏ dễ thương

đang làm duyên, tóc xõa

thấy lửa trời nung ngon

chín bòn bon sự sống

thấy sự sống nhịp nhàng

theo đỏ, vàng, xanh, đỏ...

thấy phố xá từ tâm

đèn cười hoa ba đóa...

(17/01/89)

Rõ ràng là anh đã học ở đâu, từ những vật vô tri, từ người tình, từ cuộc đời, từ nỗi buồn đau, từ cơn thất chí, từ niềm tuyệt vọng, từ cơn bệnh tưởng, từ một nền đạo lý hun đúc tâm anh, hay từ tất cả những thứ trên: đức khiêm nhẫn và lòng tha thứ, chịu đựng vô cùng:

Tịnh khúc

 (…)

buồn ơi...

tôi bỏ tôi rời rã

bất lực làm sao trước cuộc đời

ừ nhỉ, trước giờ tôi chiến đấu

cho niềm bất lực buổi hôm nay!

ừ nhỉ, bây giờ tôi mới biết

ghế bàn nên kính trọng như thầy

bàn ghế dạy tôi điều nhẫn nhục

dạy tôi bình thản thứ tha đời

 (13/01/89)

Điều anh học được, làm được, cũng cho ta học được. Một tấm lòng khiêm cung, khiêm nhẫn. Một tấm lòng bao dung, tha thứ, và trên hết, vẫn tiếp tục yêu thương con người, yêu thương cuộc đời.

Sau đây là bài Tâm Dung, bài thơ được lấy đặt tên chung cho tập thơ. Bài thơ được đặt ở cuối tập. Không rõ sau bài này, Nguyễn Tất Nhiên còn những bài khác chăng. Nhưng đọc xong bài này, tôi nghĩ đời thơ của anh đến ngang đây cũng quá đủ rồi. Không cần phải thêm một bài nào nữa. Đây không phải là một bài thơ tuyệt tác của nền văn học nước nhà, mà là lời tỏ tình tuyệt vời của một tín đồ thuần thành của tình yêu, suốt đời chỉ tận tụy yêu, và tụng đọc bài kinh yêu. Sau đây là vài trích đoạn:

Tâm dung

1. có thể nào trẻ thơ sống bên ngoài lòng mẹ? có thể nào anh sống ngoài tầm mắt em?

(...)

5. tình yêu sao mà đau khổ với khổ đau, toại nguyện phải chăng là hạnh phúc? em lý lẽ gần nhau tình sẽ chết, vậy người ta sinh ra, sống, để làm chi?

6. anh cô đơn ca hát vu vơ lời gì vô ý chỗ đám đông nơi con người dễ dàng phỉ báng kẻ điên khùng, ấy chết, anh chẳng thể viện lý do cuộc sống vắng em, dù em sẽ tin, nhưng thảm trải dưới chân có lời nào giải thích? dưới chân tình yêu, anh xin thành khẩn hứa chịu đựng ngang nhau hết thảy kẻ thân, thù.

(…)

(19/01/89)

Sau đó không thấy thơ Nguyễn Tất Nhiên nữa. Rồi một hôm, nghe tin anh mất. Trên chiếc xe cũ, đậu dưới bóng cây, trong vườn một ngôi chùa. Đời anh, lúc nào cũng đi sớm hơn kẻ khác. Đời không ruồng bỏ anh, cũng chẳng người tình nào ruồng bỏ anh (không ai có thể ruồng bỏ một người đáng yêu như thế! mà cũng chẳng ai có thể ruồng bỏ được một gã yêu tha thiết, yêu miệt mài, yêu thủy chung suốt đời như thế!). Chỉ có anh, tự ý đi thật sớm, rời bỏ cuộc đời, để lại một cõi thơ bát ngát. Không cần phải tội nghiệp cho anh, và đừng tưởng anh khổ đau cùng tận! Anh là kẻ hạnh phúc vô cùng tận với tình yêu bất diệt và tấm lòng bao dung hiếm có. Và thơ anh, đã hóa thân khắp nơi khắp chốn: là ngọn cỏ mềm, là gió mơn man, là dòng sông êm, là bàn ghế lặng thinh, là đất trời mênh mang vô hạn... Nơi đó, có đủ hương vị của tình yêu cũng như những hỉ, nộ, ái, ố... bình thường của một con người, dù là con người thi sĩ, hay văn sĩ. Nhưng tất cả đều được dung chứa trong một cõi lòng thật rộng.
Có thể nói, giới hạn giữa sống-chết, qua Tâm Dung ấy, không còn nữa.

Vĩnh Hào


Ý kiến bạn đọc
23 Tháng Năm 20117:00 SA
Khách
Xin hỏi Nguyễn Tất Nhiên có phải là Nguyễn Hoàng Hải con của tiệm giầy Ngọc Sơn ở Biên Hòa không?
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
20 Tháng Mười Một 2011(Xem: 11738)
Từ trong tận đáy lòng chúng tôi kính dâng lên hương linh ông lời vĩnh biệt. Tri ân những tài đức của ông đã để lại tiếng thơm cho quê hương Biên Hòa
24 Tháng Sáu 2011(Xem: 11786)
Hôm nay ở tuổi 85, Bs Phiêu có thể hãnh-diện mà nhận sự vinh-danh của các hội-đoàn và thân-hữu vì anh đã hiến cả một đời tận-tụy để phục-vu dân ta, phục-vụ y-khoa và phục-vụ quê-hương xứ-sở.
18 Tháng Năm 2011(Xem: 15418)
Tôi muốn mình hoà với thiên nhiên... Không oán ghét không gây hận sầu...' ' Đã bao năm, nhạc sĩ Lê Hựu Hà trải lòng như vậy. Và bây giờ sẽ là mãi mãi bình yên, có phải không anh?
27 Tháng Giêng 2011(Xem: 20974)
Bình- Nguyên là đồng bằng, cái bằng phẳng phì nhiêu hiền hòa của quê hương. Lộc là Nai; tên một loại thú hiền lành đẹp đẽ. Nai hiền đồng bằng chỉ muốn được sống êm đềm giửa cỏ biếc, hoa thơm nơi quê mẹ. Bình-Nguyên Lộc có nghĩa là Đồng Nai.
18 Tháng Mười 2010(Xem: 13093)
Dòng sông Đồng nai đã mang nguồn nước ngọt, trong xanh, tươi mát và đất phù sa phì nhiêu bồi đấp hai bên bờ sông từ hướng Bắc chạy dài qua hướng Tây Nam và Nam của vùng đất Biên Hòa.
18 Tháng Mười 2010(Xem: 14068)
Một người con dân xứ Bưởi, một nhân tài, một người mà dân chúng Biên Hòa rất quí mến,một người anh đáng kính mà chúng tôi xin giới thiệu đến quý đồng hương Biên Hòa: Ông Châu Kim Nhân.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 15706)
Trong buổi lễ xuất quân đánh sang Campuchia của Lữ đoàn 3 KB tháng 1-1971, Đại Tướng tuyên bố là ông sẽ sống và chết với ba quân trên chiến trường. Ông đã giữ đúng lời hứa. Ông đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho Quân đội và TỔ QUỐC.
05 Tháng Mười 2010(Xem: 18308)
Một người Biên Hòa xứ Bưởi đã dám sống tận tụy một tay chăm sóc mọi việc lớn nhỏ cho đến nổi kiệt sức trút hơi thở cuối cùng. Thật khó tìm lại được một tấm gương tài đức vẹn toàn và cung cúc tận tụy hy sinh cho đại cuộc như vậy trong cỏi đời đầy nhiểu nhương này.