8:00 SA
Thứ Ba
23
Tháng Tư
2024

NGUYỄN TẤT NHIÊN MỘT TRƯỜNG THIÊN KỊCH BẢN BI AI - ĐỖ TRƯỜNG

03 Tháng Ba 20228:33 SA(Xem: 4476)

NGUYỄN TẤT NHIÊN

MỘT TRƯỜNG THIÊN KỊCH BẢN BI AI

(Mục chân dung nhà văn- Đỗ Trường)
TẤT NHIÊN

Khi ngôi sao mai Nguyễn Nho Sa Mạc chợt vụt tắt, khoảng trống để lại tưởng như khó có thể bù lấp, thì may mắn thay, trên vòm trời thi ca xuất hiện một Nguyễn Tất Nhiên. Tuy còn tuổi học trò, và khác nhau về thi pháp sáng tạo, nhưng có thể nói, Nguyễn Nho Sa Mạc và Nguyễn Tất Nhiên là hai thi sĩ đích thực. Sự xuất hiện của họ góp phần làm dịu mát, và giải tỏa sự bế tắc của văn thơ, cũng như âm nhạc miền Nam trong giai đoạn chiến tranh khốc liệt nhất của dân tộc.

Đọc và đi sâu vào nghiên cứu, ta có thể thấy, thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên tên thật là Nguyễn Hoàng Hải, sinh năm 1952 tại Biên Hòa. Ông là hiện tượng rất đặc biệt của văn học miền Nam. Cái đặc biệt ấy, không chỉ ở tài năng chín sớm, mà ta còn thấy rõ ý tưởng, cũng như hình tượng và ngôn ngữ mới lạ trong thơ Nguyễn Tất Nhiên.

Thật vậy, 14 tuổi (năm 1966) cùng với Đinh Thiên Phương, cậu học trò Nguyễn Hoàng Hải với bút danh Hoài Thi Yên Thi đã cho xuất bản tập thơ đầu tay Nàng Thơ Trong Mắt. Năm 16 tuổi, Hoài Thi Yên Thi in chung tập thơ thứ hai Dấu Mưa Qua Đất cùng với bút đoàn Tiếng Tâm Tình. Và sau khi đổi bút danh thành Nguyễn Tất Nhiên, ông cho xuất bản Thiên Tai vào năm 1970. Thi tập này là thẻ thông hành, đã đưa Nguyễn Tất Nhiên thẳng vào làng văn. Đây là dấu mốc quan trọng nhất trong sự nghiệp sáng tạo của Nguyễn Tất Nhiên. Dù lúc đó ông vẫn còn ngồi trên ghế trung học Ngô Quyền, Biên Hòa. Ngay sau đó, một loạt thi phẩm của Nguyễn Tất Nhiên được các nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, Phạm Duy phổ nhạc, tên tuổi ông càng đóng đinh vào lòng người đọc nhiều hơn, nhất là giới sinh viên, học sinh. Năm 1978, Nguyễn Tất Nhiên vượt biên, và tị nạn tại Pháp. Và ở đó, nhà xuất bản Nam Á đã ấn hành thi tập “Thơ Nguyễn Tất Nhiên“ vào năm 1980. Khi đến định cư tại Hoa kỳ, Nguyễn Tất Nhiên cho in ấn và phát hành Chuông Mơ (1987) Tâm Dung (1989) cùng thi tập Minh Khúc. Đặc biệt tập nhạc Những Năm Tình Lận Đận của ông sáng tác từ khi còn ở trong nước cho đến ra hải ngoại, do nhà xuất bản Tiếng Hoài Nam, Hoa Kỳ ấn hành, vào năm 1984. Nếu đọc, và nghiên cứu đầy đủ, ta có thể thấy, ba khía cạnh chính làm nên chân dung nhà thơ tài hoa Nguyễn Tất Nhiên: Tình yêu, ý tưởng và những hình tượng trong thơ, cũng như chiến tranh, sự phân ly tác động đến tư tưởng, cùng cuộc sống bế tắc với nỗi đau tuyệt vọng của ông.

Năm 1992, bước vào tuổi bốn mươi, có lẽ trái tim mong manh, dễ vỡ của người nghệ sĩ Nguyễn Tất Nhiên, không vượt qua được cái bế tắc của cuộc sống, cũng như tâm hồn, nên ông đã tự kết thúc cuộc đời mình. Sự ra đi đang ở độ chín, và sung sức nhất của Nguyễn Tất Nhiên, làm cho rất nhiều người ngơ ngác và tiếc nuối. Và khoảng trống ông để lại không hề nhỏ, suốt mấy chục năm qua, chưa người (thi sĩ học trò) nào có thể thay thế, bù lấp.
*Tình yêu, ý tưởng và hình tượng mới lạ trong thơ.

Tình yêu chiếm một vị trí quan trọng nhất trong sự nghiệp sáng tạo của Nguyễn Tất Nhiên. Đọc ông, làm tôi nhớ đến thi sĩ Đinh Hùng. Bởi, cái chất cuồng nhiệt đến tận cùng, với những hành động mà người đời cho là điên điên khùng khùng, tỉnh tỉnh say say ấy trong tình yêu của hai thi sĩ quyện chặt vào nhau đến vậy. Không rõ, Nguyễn Tất Nhiên có đọc, hoặc chịu ảnh hưởng tí ti nào từ Đinh Hùng hay không? Bởi, khi đọc ông sự ám ảnh cứ vẩn vơ đeo bám tôi, y như đọc thơ Đinh Hùng vậy. Tuy nhiên, một chừng mực nào đó, tôi nghĩ, Nguyễn Tất Nhiên có chịu ảnh hưởng ý tưởng, xây dựng hình tượng từ Du Tử Lê, ở một số bài viết vào khoảng năm 1970- 1971. Ta có thể thấy, cùng viết nỗi đau của tình yêu: “ Tình yêu như dao nhọn/ Anh đâm mình, lút cán“ và “ Về như dao nhọn/ ngọt ngào vết đâm“ hai hình tượng so sánh trong Khúc Thụy Du của Du Tử Lê, và Khúc Tình Buồn của Nguyễn Tất Nhiên khá tương đồng. Và tất nhiên, Khúc Thụy Du đã ra đời sớm hơn Khúc Tình Buồn của Nguyễn Tất Nhiên hai năm.

Cái Tôi, cái nghệ thuật vị nghệ thuật là nền tảng, xương sống để làm nên khung thơ Nguyễn Tất Nhiên. Mỗi bài thơ được vắt ra từ cảm xúc của những mối tình đơn độc, nghiệt ngã trong ông. Và thủ thuật đưa tên tuổi thật của người yêu vào thơ, để gõ vào tâm lý (tò mò) của người đọc, nhằm đào sâu vào giá trị chân thực. Tuy nhiên, thủ pháp này, không phải là mới. Bởi, trước Nguyễn Tất Nhiên có Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng hay Du Tử Lê… đã sử dụng nghệ thuật này. Nhưng ở lứa tuổi học trò dám sử dụng, và sử dụng hay như Nguyễn Tất Nhiên, không phải nhà thơ nào cũng làm được. Do những đặc tính trên, nên những bài thơ này, thường có sức sống rất lâu dài. Hoặc trở thành những giai thoại, hay câu chuyện tình sử để lại cho hậu thế:

“…nếu vì em mà ta phải điên tình
cơn giận dữ đã tận cùng mê muội
thì đừng sợ, Duyên ơi, thiên tài yếu đuối
tay tre khô mối mọt ăn luồn
dễ gãy dòn miểng vụn tả tơi xương
khi tàn bạo siết cổ người yêu dấu!
em chẳng bao giờ rung động cũ
ta năm năm nghiệt ngã với tình đầu…“
(Duyên của tình ta con gái Bắc)

Thơ và tình yêu, hai thứ đam mê, cuồng nhiệt nhất đối với Nguyễn Tất Nhiên. Thất bại tình yêu đầu đời như một nhát dao chém tâm hồn ông. Để rồi, mang theo những vết thương bốn mùa luôn mưng mủ ấy, cùng nỗi thất vọng và cô đơn, Nguyễn Tất Nhiên cuộn mình vào trong thơ. Và tưởng chừng thơ ca sẽ làm giảm bớt nỗi đau, giải thoát linh hồn người thi sĩ. Nhưng không phải vậy, bởi cái thất vọng ấy, nỗi đau ấy ủ trong thơ còn nhức nhối, và day dứt hơn sức chịu đựng của con người. Chỗ Tôi, là một bài thơ đã bật ra từ cái ung ủ như vậy của Nguyễn Tất Nhiên. Xét về nghệ thuật, đây là một bài thơ dở của ông, nhưng đọc, ta thấy được sự đắng cay, ê chề, như một lời tự thú của thi nhân vậy:

“Tôi có chỉ cho gia đình
Người tôi yêu
Là một nàng con gái Bắc
Mẹ tôi hai lần nhìn
Dáng em đi
Và nói nó còn nhỏ dại
Không hiểu nó thương mày chỗ nào
Tôi trả lời chỗ con làm thi sĩ
Tuy nhiên tôi vừa đau nhói trái tim
Vì hiểu rằng
Muôn đời
Em vẫn ngó tôi nửa mắt
Có gì đâu
Thiên hạ lâu nay cứ nhạo báng tôi khùng!“

Cũng như Lục bát, thơ Ngũ ngôn rất dễ làm, song khó hay. Bởi, từ thơ đến vè có khoảng cách rất gần, nếu nhà thơ không thực tài. Tuy nhiên, ta có thể thấy, những bài thơ hay của Nguyễn Tất Nhiên thường thuộc về thể thơ này. Ngũ ngôn thơ Nguyễn Tất Nhiên hay, không phải chỉ ở tài năng sử dụng từ ngữ, mà còn ở sự hình tượng hóa, cũng như ý tưởng mới lạ. Nhìn lại văn học sử, dường như chưa ai dám cả gan đưa những hình tượng thánh thiện nơi Thánh đường, cửa Phật để ẩn dụ, so sánh với những cái được cho là kỵ húy như Nguyễn Tất Nhiên. Sự so sánh, tưởng chừng như bất nhã ấy, nhưng thật kỳ lạ, hình ảnh trong thơ Nguyễn Tất Nhiên hiện lên rất độc đáo và tinh tế, đẹp một cách trong sáng và hồn nhiên. Và Ma Soeur là một trong những bài thơ như vậy. Vâng, dù bao nhiêu hạt mưa rơi cũng chưa đủ, chưa thấm bằng tình của người thi sĩ rụng xuống linh hồn thánh thiện ấy:

“vai em tròn dưới mưa/ ướt bao nhiêu cũng vừa/ cũng chưa hơn tình rụng/ thấm linh hồn ma-sơ“.

Một hình tượng so sánh ẩn dụ, dường như, thi nhân muốn khỏa lấp nỗi đắng cay, bất lực, cùng thủ thuật nhân cách hóa, (hay tưởng tượng) để tự ru hồn mình vậy. Đây là bài thơ rất hay của Nguyễn Tất Nhiên. Và Phạm Duy phổ thành ca khúc: Em hiền như Ma Soeur, được nhiều người ưa thích từ gần nửa thế kỷ qua:

“…em hiền như ma-sơ
vết thương ta bốn mùa
trái tim ta làm mủ
ma-sơ này ma-sơ
có dịu dàng ánh mắt
có êm đềm cánh môi
ru ta người bệnh hoạn
ru ta suốt cuộc đời
cuộc đời tên vô đạo
vết thương hành liệt tim!…“

Có thể nói, Nguyễn Tất Nhiên là nhà thơ giàu trí tưởng tượng. Tài năng sáng tạo từ mới, cụm từ mới để tạo nên những hình tượng độc đáo, táo bạo gây sửng sốt, thú vị cho người đọc, xuất hiện ngay từ ngày đầu cầm bút của ông. Nếu ở bài Ma Soeur, Nguyễn Tất Nhiên đã dùng thủ pháp so sánh hình tượng hóa sự thánh thiện của người tình, thì đến với Linh Mục, ông hóa thân cho chính mình, để tìm dĩ vãng, đi đến tận cùng sự thật của cái địa ngục tình yêu ấy:

“ Vì tôi là linh mục/ giảng lời tình nhân gian/…tín đồ là người tình/ người tình là ác quỷ/ ác quỷ là quyền năng“.

Thật vậy, những cụm từ so sánh ẩn dụ cũ kỹ và dân dã này, đã được thi sĩ đặt đúng văn cảnh trong cái ý tưởng độc đáo của mình, nó trở thành nghĩa mới, hình tượng mới. Bởi vậy, nó gây cảm hứng cho nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang chuyển thành ca khúc Vì Tôi Là Linh Mục, được mọi tầng lớp đón nhận, yêu thích, nhất là giới trẻ. Đây là một trong những đặc tính làm nên hồn thơ đặc trưng riêng Nguyễn Tất Nhiên. Đặc tính này xuyên suốt sự nghiệp sáng tạo của ông:

“dĩ vãng là địa ngục
giam hãm đời muôn năm
tôi – người yêu dĩ vãng
nên sống gần Satan
ngày kia nghe lời quỉ
giáng thế thêm một lần
trong kiếp người linh mục
xao gầy cơn điên trăng!

vì tôi là linh mục
giảng lời tình nhân gian
nên không có thánh kinh
nên không có bổn đạo
nên không có giáo đường
một tín đồ duy nhất
vừa thiêu huỷ lầu chuông!…“

Tôi không cân đong, đo đếm kỹ lắm, nhưng dường như thơ Nguyễn Tất Nhiên nằm trong Top được phổ nhạc nhiều nhất từ trước đến nay? Bởi, ngoài ngôn ngữ giầu nhạc tính, thanh âm, thì ý tưởng mới lạ trong thơ của ông tạo ra rất nhiều cảm hứng cho các nhạc sĩ sáng tạo. Và cái ý tưởng ấy, như một luồng gió mới thổi vào cái không khí âm nhạc thời chiến lúc đó. Thật vậy, một loạt các ca khúc của Phạm Duy ra đời từ thơ Nguyễn Tất Nhiên. Đặc biệt có ca khúc Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ, Phạm Duy đã mượn ý tưởng bài thơ Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ và cảm hứng từ Đám Đông để viết nên. Có thể nói, đây là bài thơ điển hình về tài năng trí tuệ liên tưởng của Nguyễn Tất Nhiên, đã giúp cho Phạm Duy chuyển thành một ca khúc hay đến vậy. Và hơn thế nữa, với tài năng của mình, Phạm Duy vẫn giữ nguyên được sự nhẹ nhàng, tính vui nhộn cùng từ ngữ mộc mạc của bài thơ:

“cô Bắc Kỳ nho nhỏ/ tóc “demi-garçon”/ chiều đạp xe vô chợ/ mắt như trời bao dung/ đời chia muôn nhánh khổ/ anh tận gốc gian nan/ cửa chùa tuy rộng mở/ tà đạo khó nương thân/…qua giáo đường kiếm Chúa/ xin được làm chiên ngoan/ Chúa cười rung thánh giá/ bảo: đầu ngươi có sừng!“.

Vẫn mang tâm trạng oán trách buồn đau, khắc khoải của Hai Năm Tình Lận Đận, do Phạm Duy phổ nhạc, Anh Bằng đã đưa bài lục bát Trúc Đào vào âm nhạc mượt mà, và nhẹ nhàng hơn. Song nó vẫn giữ nguyên được hồn vía của bài thơ. Với tôi, Trúc Đào là một bài thơ hay nhất ở thể lụt bát của Nguyễn Tất Nhiên. Nó không chỉ hay về nội dung tư tưởng, mà có lời thơ rất mượt mà

“Chiều xưa có ngọn trúc đào/ Mùa thu lá rụng bay vào sân em…“

Tuy nhiên, Khúc Tình Buồn được Phạm Duy phổ nhạc với lời tựa Thà Như Giọt Mưa, cho tôi nhiều cảm xúc nhất. Khúc Tình Buồn thuộc thể tứ ngôn, là một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Tất Nhiên. Bài thơ, ông viết khi đang là học sinh năm cuối trung học. Vẫn thủ pháp so sánh ẩn dụ, Nguyễn Tất Nhiên đã mượn hiện tượng của tự nhiên giãi bày nỗi lòng đớn đau, sự bất lực của kẻ si tình, của một tình yêu đơn phương:

“thà như giọt mưa/ vỡ trên tượng đá/ thà như giọt mưa/ khô trên tượng đá/ có còn hơn không“.

Để rồi, từ trong nỗi bất lực, và tình si ấy, người đọc mới chợt nhận ra, cái giá trị tuyệt đối và vĩnh cửu của tình yêu. Tuy nhiên, bác nào đang bị tình phụ, hay tình đơn phương, tim mạch yếu kém, thì chớ nên đọc bài thơ này:

“người từ trăm năm
về qua sông rộng
ta ngoắc mòn tay
trùng trùng gió lộng
người từ trăm năm
về khơi tình động
ta chạy vòng vòng
ta chạy mòn chân“

Nếu trước đó, văn học sử Việt không có những thi sĩ thiếu niên Chế Lan Viên với Điêu Tàn, Tế Hanh với Nghẹn Ngào, hay Nguyễn Nho Sa Mạc với Trăng Lạnh, thì có lẽ không ai tin thi phẩm Thiên Tai là do người học trò trung học Nguyễn Tất Nhiên viết ra. Bởi, sự già dặn của bút pháp cũng như tư tưởng, với những câu thơ được ủ chín tâm hồn thi nhân. Tôi không biết chính xác, bài thơ Oanh được Nguyễn Tất Nhiên viết từ khi nào. Nhưng chắc chắn, nó được viết trước tập Thiên Tai, lúc đó ông đang học lớp 10 hoặc lớp 11. Một bài thơ già dặn, và lời thơ tuyệt đẹp:

“Hãy yêu chàng, yêu chàng như yêu cánh gió/ Chơi giỡn tung tăng hai vạt áo dài/ Gió đưa mây về, trời mưa, bong bóng vỡ/ Chàng đưa tình về, xót ngọn cỏ may“.

Bài Thiên Thu viết năm Nguyễn Tất Nhiên 18 tuổi. Với bài thơ này, Nguyễn Tất Nhiên có thể ngồi cùng mâm nhấc lên đặt xuống với các cụ Đinh Hùng, Bùi Giáng…Du Tử Lê rồi. Với tôi, đây là bài thơ toàn bích nhất của Nguyễn Tất Nhiên. Đọc nó, tôi bị ám ảnh, mộng mị hết mấy đêm liền. Cả bài thơ là một câu hỏi tu từ. Không một lời giải đáp, buộc Nguyễn Tất Nhiên lìa hồn mình ra khỏi của cái thế giới hiện thực. Ông co giò chạy trốn quá khứ. Nhưng chạy đâu cũng thấy “chạy vòng vòng“ đang “chạy mòn chân“ rồi quay về với cái hiện hữu của chính mình. Vâng, đó cũng như một trường thiên kịch bản bi ai, vận vào chính cuộc sống cũng như tâm hồn Nguyễn Tất Nhiên vậy:

“…sao thiên thu không là thiên thu?/ nên những người yêu là những ngôi mồ/ tôi đứng một mình trong nghĩa địa/ và chắc không đành quên khổ đau!“.

Đang định viết lời kết cho giai đoạn này, cũng như nguyên nhân dẫn đến sự thành công rất sớm của Nguyễn Tất Nhiên, chợt làm tôi nhớ đến câu chuyện. Hôm rồi, tân gia nhà một người bạn, trong lúc khật khừ, tôi buột miệng nói với một bác nhà thơ cộng đồng đến từ Berlin: Với tôi, kể từ sau 1954 đến nay (2019) văn học Việt Nam ở tuổi học trò, có hai thi sĩ tài năng nhất. Đó là Nguyễn Nho Sa Mạc, người xứ Quảng, với tập thơ Vàng Lạnh, và nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên người xứ Nam, với tập thơ Thiên Tai. Bác nhà thơ này, goặc lại tôi: Ông nói thế chó nào ấy chứ, xứ Bắc có không ít các thần đồng thơ, chả lẽ không đáng nói đến sao. Tôi bảo bác ấy: Đây là ý kiến chủ quan của cá nhân tôi, có thể là sai. Nhưng ta có thể thấy, trong giai đoạn đó ở miền Bắc cũng xuất những tài năng thi phú trẻ, và được gắn mác mỏ thần đồng như: Hoàng Hiếu Nhân, hay Trần Đăng Khoa… Tuy nhiên, các thần đồng thi ca này, được các nhà thơ tên tuổi Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Trần Nhuận Minh… chăm sóc, định hướng tư tưởng rất kỹ càng. Do vậy, có những câu thơ của họ đọc lên cứ tưởng của Diệu, của Chế, của Minh. Hơn nữa, mấy “thần đồng“ này chỉ làm được thơ thiếu niên, nhi đồng. Sau này, Hoàng Hiếu Nhân bị tịt ngòi không viết lách được nữa. Còn Trần Đăng Khoa viết lay lắt, với những dấu ấn mờ nhạt. Thành thật mà nói, nếu ngoa ngôn dùng danh từ thần đồng để đo lường tài năng thi phú, thì với tôi, kể từ khi xuất hiện thơ mới đến nay, chỉ xảy ra một lần duy nhất. Đó là cậu bé thần đồng Chế Lan Viên với thi tập Điêu Tàn. Một tập thơ vừa ra đời đã trở thành cổ thi.

Kinh hơn nữa, thời gian gần đây chẳng hiểu ăn phải cái bả gì, mà ông Giáo sư Phong Lê, ông Phó chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam “cựu thần đồng“ Trần Đăng Khoa cùng một số nhà thơ, nhân vật tên tuổi phát động cuộc thi “Sáng tác văn tế Đại thi hào Nguyễn Du”. Một việc làm hoặc ấu trĩ, hoặc của chùa cùng nhau chia oản. Quả thực, xa Việt Nam đến quá nửa đời người, vậy mà nghe cái từ phát động, với phong trào tôi sởn hết cả người.

Nghệ thuật Lục bát, tài năng thi phú của cụ Nguyễn Du đã được khẳng định từ mấy trăm năm qua cùng với Kiều Truyện. Không còn bàn cãi. Tuy nhiên, hồn vía của tác phẩm này thuộc về anh ba Tàu phương bắc. Do vậy, với tôi những tác phẩm Việt thuần chủng (Việt tính) đi vào lòng người hơn, từ mấy trăm năm qua phải là: Đặng Trần Côn với Chinh Phụ Ngâm, hay Nguyễn Gia Thiều với Cung Oán Ngâm Khúc.

Dài dòng một chút về vấn đề này để cho thấy, miền Bắc không phải, không có những tài năng trẻ, từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Nhưng với sự dẫn dắt, tư tưởng đến nay vẫn còn như thế này, thì tài năng nào không thui chột, hoặc biến dạng mới là chuyện lạ. Cũng may, Nguyễn Tất Nhiên sinh trưởng ở miền Nam, bằng không cũng mất hút con mẹ hàng lươn như “thần đồng thơ“ Hoàng Hiếu Nhân trên thi đàn là cái chắc.
*Chiến tranh, cùng nỗi thống khổ sau cuộc chiến.

Sinh ra và lớn lên trong giai đoạn tang thương nhất của đất nước, tuy không phải là người lính, song Nguyễn Tất Nhiên cũng không thể bước ra khỏi cuộc chiến ấy. Tuy nhiên, cứ tưởng, thơ văn thi phú của ông chỉ ngắc ngư với giăng hoa, ong bướm, Oanh, Duyên, Minh Thủy. Nhưng tôi đã lầm. Mảng viết về thế sự, xã hội tình người của Nguyễn Tất Nhiên không hề nhỏ. Viết về chiến tranh, dường như bút pháp, cũng như nội dung hiện thực ông đào sâu vào khía cạnh rất khác so với các thi sĩ cùng thời. Bởi, đọc ông, tôi không hề thấy tiếng bom rơi, đạn nổ, vậy mà khói lửa, chết chóc thương đau trải dài trên trang thơ của ông. Thật vậy, vừa rời ghế nhà trường, (19 tuổi) Nguyễn Tất Nhiên đã viết “Chiều Mệnh Danh Tổ-Quốc”. Một bài thơ, không chỉ người lính, hoặc những người trải qua chiến tranh, mà tôi, kẻ chưa hề biết đến súng đạn, vậy mà ngồi đọc, và viết cũng phải rưng rưng:

“…Chiều quân đội nghĩa trang
Chiều mệnh danh tổ quốc
Có muôn ngàn câu kinh
Có muôn ngàn tiếng khóc

Có chuyến xe nhà binh
Đưa “Thiên Thần” xuống đất
Còn ai, còn ai chăng ?…“

Có thể nói, từ thơ tình đến thơ thế sự của Nguyễn Tất Nhiên bài nào cũng vậy, rất nhẹ nhàng, không hề lên gân, song đã gieo vào lòng người đọc nỗi đau day dứt khôn nguôi. Vào giai đoạn cuối của cuộc chiến, thân phận người lính càng bi đát hơn. Sự kiên cường của họ trước sự hèn nhát, tháo chạy của những cấp lãnh đạo cao nhất, làm cho Nguyễn Tất Nhiên xúc động:

“Về trên nạng gỗ mà trông/ Lô nhô lãnh đạo cong lưng bôn đào”.

Thật vậy, sự đồng cảm đối người lính trong thơ ông, không chỉ trong chiến tranh, mà ngay sau cuộc chiến, ta càng thấy đậm nét hơn. Chiến tranh qua đi, nỗi đau về thể xác lẫn tâm hồn của người lính thương phế binh, và những hệ lụy cho gia đình, cháu con còn bi thương, rách nát hơn gấp nhiều lần. Về Trên Nạng Gỗ là một bài thơ như vậy. Nó là một trong những bài thơ thế sự hay nhất, từ trước đến nay, mà tôi đã được đọc. Tính hiện thực như một bản cáo trạng đối với chế độ xã hội đương thời của nhà thơ, cùng lời cảm thông sâu sắc, xoa dịu nỗi đau của con người. Đọc xong bài thơ này, tôi không còn biết đây là thơ, hay là lời ru nỗi đau của Nguyễn Tất Nhiên. Các bạn đọc lại đoạn trích dưới đây, xem có cảm giác như tôi không:

“…Về trên nạng gỗ mà trông
Chín năm chinh chiến đeo tròng nguỵ quân
Con thơ nhục nhã đến trường
Ê a phỉ báng máu xương cha mình
Cha “lính nguỵ” – con tự nhiên
Thành phần không được ngóc lên làm người
Học vừa đủ biết đọc thôi
Đủ làm gia súc hiểu lời Đảng sai
Hãy cười đi phế binh ơi
Một tay cũng rán mà… moi củ mì
Từ đây dỗ đói thường khi
Ru con tôi hát não nề ca dao“

Cái đau của người thi sĩ là ru được người chứ không thể ru được chính mình, tâm hồn mình. Do vậy, trong cái bi đát đó, Nguyễn Tất Nhiên buộc phải trốn chạy, hay tìm đến: “Ta mời ta viếng mộ/ Lìa thảm cảnh dương gian“. Và cầu Nại Hà cũng đã bị gãy nhịp, người thi sĩ quay về nơi địa ngục. Không nghe lời sám hối, mà vọng lên tiếng kêu than thỉnh cầu của thi nhân: “Phải sống nơi địa ngục/ Mới hiểu thấu thân ta“. Dường như không có lời đáp vọng lại. Bởi, sự bất lực, hấp hối tro tàn ấy, đâu chỉ riêng thi sĩ:

“…Ta mời ta viếng mộ
Lìa thảm cảnh dương gian
Chúc Phật còn lui chân
Trước bạo quyền chế độ
Huống hồ chút hư danh
Nguyễn Tất Nhiên thống khổ
Ôi chữ nghĩa văn chương
Bất lực, càng bất lực
Phải sống nơi địa ngục
Mới hiểu thấu thân ta
Đôi mắt người ngây thơ
Không hề vương vấn tội
Có chở tình ta theo
Tới cõi nào diệu vợi?
Lửa đời ta đã lụn
Đang hấp hối tro tàn“ (Tháng 11, Thơ Mưa)

Thành thật mà nói, chỉ khi đi sâu vào đọc, tôi mới nhận ra thơ văn Nguyễn Tất Nhiên luôn gắn liền với xã hội và đời sống của con người. Thơ của ông có tính thời sự cao. Tôi nghĩ, mảng đề tài này góp phần không nhỏ làm nên sự nghiệp sáng tạo của ông. Nhưng dường như, bấy lâu nay chúng ta đã quên hẳn nó. Do vậy, văn học sử Việt Nam rất cần những nhà nghiên cứu khai quật, đánh giá cho thật đầy đủ, và khách quan về thơ văn Nguyễn Tất Nhiên.
Chia ly, với cuộc sống bế tắc, cùng những nỗi đau tuyệt vọng.

Ra đi là con đường duy nhất để giải thoát Nguyễn Tất Nhiên ra khỏi nơi địa ngục. Con thuyền lá tre kia vừa cập bến tự do, thì linh hồn ông đã chết ngay khi đặt chân lên miền đất lạ:“kẻ vượt biển đã tới bến mạnh lành/ nhưng chết ngay khi đặt chân lên bờ đất“. Những mâu thuẫn nội tâm, và bi kịch của người thi sĩ bắt đầu từ đó. Để rồi, cuộc sống và thi ca Nguyễn Tất Nhiên luẩn quẩn trong cái vòng tròn định mệnh ấy. Có thể nói, đây là tâm lý chung của tất cả các văn nghệ sỹ trốn chạy sau biến cố 1975, chứ không riêng Nguyễn Tất Nhiên. Tuy nhiên, sự hòa nhập, nghị lực và khát vọng tự do, khát vọng sống của mỗi con người khác nhau. Bài thơ Paris, Khúc Tháng Chín  được Nguyễn Tất Nhiên viết trong tâm trạng, và hoàn cảnh như vậy. Đây là bài thơ hay, một lần nữa chứng minh cho ta thấy, sự liên tưởng, trí tưởng tượng phong phú của ông:

“…kẻ leo rào đã chụp được Tự Do
nhưng tức thời buông tay bổ ngửa
là ta

phải, ta đánh rơi ta
nát vụn
sau khi đánh rơi Việt Nam
bên kia bờ biển mịt

cây cối sẽ phục sinh vào đầu tháng tư năm tới
phần ta
cách gì tươi tắn lại
khi đời đã sang thu
cộng với lần bứng gốc…“

Những năm tháng ly hương, cuộc sống Nguyễn Tất Nhiên, dường như hồn đã lìa khỏi thân xác. Với ông, đó là những nỗi đau và cô đơn không có thể bù lấp: “Quê hương đã lìa/ Người tình đã xa/ Bạn bè đã tàn/ Mọi thứ đã rã tan cùng đại dương xanh”. Do vậy, với tâm hồn, nghị lực mong manh yếu đuối luôn làm cho người thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên chán nản bi ai: “Có lẽ em không hay/ Đôi cách chàng đã gãy“. Tuy vậy, cùng nỗi nhớ thường trực, trái tim mẫn cảm của người nghệ sĩ luôn hướng về quê hương, đất nước. Nhớ Nội, là một bài thơ thất ngôn như vậy. Một bài thơ hay và cảm động, tiêu biểu cho tâm trạng của Nguyễn Tất Nhiên trong giai đoạn này:

“…từ lúc giặc về, con biệt xứ
nát lòng chim quốc nhớ quê hương
mấy thu vàng úa đời xa cội
chẳng biết mộ phần nội có yên?“

Bi kịch gia đình, bi kịch xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng, và thi pháp sáng tác của Nguyễn Tất Nhiên. Đây là giai đoạn nặng nề, cùng cực, cô đơn nhất của ông. Do vậy, những bi ai, u uất đã trải dài từ thi tập Tâm Khúc cho đến Minh Khúc. Sự chia ly, đổ vỡ của tình yêu và gia đình“…như dao nhọn/ ngọt ngào vết đâm“ tan nát trái tim Nguyễn Tất Nhiên. Ông bất lực trong nỗi bơ vơ, và trống trải:

“bây giờ em đã xa tôi/ hay là sông núi xa đời lãng du…chim đêm hót tiếng đau tình/ đau tim tôi chở lòng thành kiếm em… “.

Giai đoạn này, dường như ông hòan toàn quay về với thể thơ lục bát. Những câu thơ của ông đọc lên như có tiếng ru đời và ru mình vậy. Vâng, hai tập thơ lục bát, cũng không thể cứu rỗi được hồn người thi sĩ. Đoạn trích về nỗi đau, và cô đơn trên con đường mịt mù sương khói trong bài Minh Khúc 90 đã báo hiệu số phận của Nguyễn Tất Nhiên:

“đường không gian – đã phân ly
đường thời gian- đã một đi không về
những con đường mịt sương che
tôi vô định lái chuyến xe mù đời
cu tí ngủ gục đâu rồi?
băng sau, ngoái lại, bời bời nhớ con…“

Có thể nói, nghị lực, và trái tim đa cảm của thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên không thể vượt qua được nghịch cảnh ở nơi miền đất lạ. Nó làm cho ông khủng khoảng tinh thần trong nỗi cô đơn đến tuyệt vọng. Nếu nói, cuộc đời Nguyễn Tất Nhiên là một bi kịch, thì diễn viên là ông, và đạo diễn cũng là ông. Và kịch bản ông viết từ hai mươi năm trước đã vận vào đúng cuộc đời, cái chết của diễn viên Nguyễn Tất Nhiên vậy:

“Ta phải khổ cho đời ta chết trẻ
Phải ê chề cho tóc bạc với thời gian
Phải đau theo từng hớp rượu tàn
Phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định“.

Tôi thuộc thế hệ sau Nguyễn Tất Nhiên khá xa, và cũng chưa một lần gặp gỡ, hoặc được quen biết ông. Tuy nhiên, tên tuổi Nguyễn Tất Nhiên, tôi đã biết khá lâu, khi đọc, hoặc viết về một số nhà văn gốc miền Nam khác. Đôi lúc tâm trạng buồn, vui tôi thường đàn hát những bản nhạc phổ từ thơ của ông, hoặc do ông sáng tác. Và Không hiểu tại sao, vài tuần nay như có một sợi dây tâm linh nào đó thôi thúc, buộc tôi tìm đọc, rồi viết về Nguyễn Tất Nhiên. Dù tôi cũng là “tên vô đạo“ như ông. Đọc và viết trong vài tuần, sau giờ làm việc, do vậy, tôi nghĩ, không tránh khỏi những thiếu sót, hoặc sai lệch. Nhưng đã đọc, mà không viết, cứ để ứ hự ở trong lòng thì quả thật, có lỗi với Nguyễn Tất Nhiên thi sĩ.

Leipzig 
Đỗ Trường

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
13 Tháng Chín 2011(Xem: 19358)
Mẹ VN ơi ! Chúng con đã có một lực lượng trẻ đầy tinh nhuệ, đầy mưu trí và khôn ngoan , họ biết cách để đoàn kết thành một lực lượng lớn mạnh, biết dùng chiến thuật hữu hiệu đấu tranh chống lại giặc trong thù ngoài
10 Tháng Chín 2011(Xem: 20313)
Buồn bả nghẹn ngào nhưng tui không khóc, chỉ từ chối không ăn cơm thịt gà hôm đó. Mặc cho chị Gấm chọc ghẹo tới cở nào tui chỉ ăn cơm với xì dầu. Nhìn cái đùi gà nằm trên dĩa với những lằn dao chặt ngọt qua lớp da vàng óng đầy mở tui thù chị Gấm chi lạ.
03 Tháng Chín 2011(Xem: 21332)
Ra đường nhìn gái còn khen là đầu óc còn sáng suốt.(khi nào nhìn đàn ông thành đàn bà thì tôi mới run). Sự sống trên trái đất này sẽ không tồn tại nếu không có những người như chồng tôi và bạn bè của anh.
30 Tháng Tám 2011(Xem: 20292)
Gió mưa sấm sét đùng đùng, Dãi thây trăm họ nên công một người. Khi thất thế tên rơi đạn lạc, Bãi sa trường thịt nát máu rơi,Trời sẽ tối, tiếc thương rồi sẽ hết. Mong các anh yên nghỉ, siêu thoát và xin hãy tha lỗi cho sự chậm trễ của chúng tôi, những người còn sống!
26 Tháng Tám 2011(Xem: 20187)
Má tui tuổi con chó, năm nay chắc cỡ 77 hay 78 gì đó, tui hỏng nhớ rõ. Người ta thường hay bảo người già hay thay đổi tính tình nhưng má tui thì có khác chi đâu? Bả vẫn thế! Như xưa. Vẫn hà tiện và tính toán chi li từ đồng bạc nhỏ
19 Tháng Tám 2011(Xem: 20851)
- Cu Lửa biết không ! Thỉnh thoảng tao nhớ đến mày ! ......Lúc nào vậy chị? Tui xin báo cho chị một tin mừng là lời nguyền ngày đó của chị rất là linh thiêng, tui đã...đã Xèo!
11 Tháng Tám 2011(Xem: 20023)
Phải về hỏi thằng Định thôi, hình như bây giờ nó đang nối nghiệp ông già ngồi may cái gì ở đó với con vợ to như cái mền. Chắc là của ai đặt rồi không đến lấy nên nó phải lấy? Định ơi, sao mày không kêu ông thầy cúng?
08 Tháng Tám 2011(Xem: 20109)
Em ra nấu cơm đi trong lúc anh tắm rửa thay quần áo. Hôm qua món cà pháo om với bì lợn, với đậu phụ rắc tía tô, anh thích lắm, ăn được mấy bát cơm. Hôm nay em làm món cá rán và món nộm rau muống trộn với thịt ba chỉ, tôm, khế, rau răm và vừng em nhé. Việc gì đi ăn nhà hàng cho tốn tiền và làm sao có món Bắc Kỳ ngon như của em cơ chứ
06 Tháng Tám 2011(Xem: 20516)
Thì ra Jack cứ ngỡ Wendy là một cô gái câm thế mà anh vẫn sinh lòng quyến luyến mà còn muốn tiếp tục đi đến hôn nhân. Wendy cũng tự hào có quyết định sáng suốt vì đã chọn được người tình trong mộng tuyệt vời nhất thế gian.
05 Tháng Tám 2011(Xem: 20098)
Khổ cho các nhà thơ, các chàng nhạc sĩ dù có nhoi nhói thất tình, cũng chẳng còn tìm đâu ra tà áo cưới để than để thở, vả lại các cô dâu bây giờ biết rõ họ đi đến đâu và sẽ làm gì, chẳng ai cần bánh quế - bánh cốm – bánh phu thê (xu xê)...
31 Tháng Bảy 2011(Xem: 21587)
Biết nói chi đây, tui chỉ là thằng nhóc con ngày đó, mà bây giờ thì Mỹ, Cộng hài hoà xúng xính trong cái áo dài cổ truyền phong kiến có in chữ THỌ cùng nhau đi lễ chùa Hương hôi rình, còn thằng tui thì âm thầm nhang đèn cúng vái cho nhỏ Mai với anh Ba Khả trong lòng. ..
28 Tháng Bảy 2011(Xem: 21068)
Đó cũng là lần cuối cùng tui gặp con Mai. Nghe nói ông Ba Râu bị bắt đánh xe bò vô rừng chở cái gì cho ai đó một tối rồi không bao giờ trở lại. Mai ơi ! cho tao xin lỗi mày, bây giờ mày ở nơi đâu? Mấy con dế mày cho đã chết từ lâu nhưng hình như tao vẫn còn nghe tiếng gáy đâu đây.
27 Tháng Bảy 2011(Xem: 21848)
Ngày mai,28/7/2011,ngày tưởng niệm lần thứ 38 năm đơn vị tôi bị phục đánh.Xin vọng tưởng đến anh linh cố thiếu tá Thạch ngọc Nhường,đơn vị trưởng của tôi,và các đồng đội đã anh dũng hy sinh.Nếu cùng chung số phận,ngày nầy 28/7/2011,là lần giỗ thứ 38 của tôi rồi. Kỷ niệm đau buồn mãi mãi không bao giờ quên.Xin thân chuyển đến quý vị bài bút ký nầy.
26 Tháng Bảy 2011(Xem: 20880)
Tui đã có về thăm lại chốn xưa trường cũ đó một lần, ông thầy Chín đã mất từ lâu, cái trường cũ của tui giờ là một căn phố cao như cái hộp quẹt dựng đứng trông quê không chịu nổi, nhưng cái sân gạch tàu đỏ vẫn còn đó.
20 Tháng Bảy 2011(Xem: 21845)
Chẳng còn dấu vết gì của chiến tranh để lại.Còn chăng là những địa danh:Bình long,An lộc,Tân khai,Suối Tàu ô,Xa cát,Xa cam,Xa trạch,Đồi Gió...trong lòng mỗi con người chúng ta,còn sống sót sau chiến tranh.Xin chiến tranh hãy ngủ yên trong tâm tư con cháu thế hệ mai sau của chúng ta.
19 Tháng Bảy 2011(Xem: 21074)
Anh thong thả uống hụm sinh tố và dõi mắt sang hàng cơm tấm bên cạnh. Đang tầm sáng, giờ cao điểm đông khách, anh chẳng thấy Ngọc Diệp đâu, chỉ thấy một bà to mập đang ngồi giữa nồi cơm to tướng không kém gì bà ta, và một cái bàn thấp trên bày la liệt những món ăn, những hũ đồ chua và hũ nước mắm, mấy ống đựng thìa, đựng nỉa
18 Tháng Bảy 2011(Xem: 20363)
Sống chung với một ông bố chồng già yếu, bướng bỉnh là chuyện không dễ. Ông hay than phiền, hỏi những câu không đúng lúc và từ chối các món ăn cần thiết. Ông hãnh diện về thời trai trẻ, cứ kể đi kể lại các câu chuyện của thời vàng son. Hồi đó, là chỉ huy trong quân đội...ông luôn đặt lý trí lên trên tình cảm
19 Tháng Sáu 2011(Xem: 20963)
“ Đời buồn như chiếc lá, lặng rơi bên hiên nhà. Mưa vô tình ngập lối Cuốn trôi mảnh hồn ta! “
15 Tháng Sáu 2011(Xem: 20014)
Tôi không thích khoe khoang về ông “Bố” của nhà đâu, vì chả lẽ lại “mèo khen mèo dài đuôi”, những điều tầm thường trong cuộc sống gia đình chắc nhà nào cũng giống nhau. Ngày lễ Cha ai cũng nhắc đến công ơn sinh thành dưỡng dục của Bố,
14 Tháng Sáu 2011(Xem: 19143)
Đã bốn mươi lăm năm trôi qua, tiếng gọi thân thương “Bố ơi!” đã vĩnh viễn lìa xa chị em tôi khi tôi vừa qua mười sáu tuổi. Mãi đến bây giờ mỗi lần nhớ về Người lòng tôi vẫn luôn mang tâm trạng bồi hồi thương kính.
01 Tháng Sáu 2011(Xem: 20246)
Ông may mắn nhiều lần thoát chết và cuối cùng đến được bến bờ tự do qua con đường vượt biên bằng đường biển. Ông định cư tại Hoa Kỳ cùng với gia đình. Hồi ký “ Cuộc đời đổi thay” được tác giả ghi lại hành trình của một đời người thăng trầm suốt hơn 50 năm theo vận nước .
27 Tháng Năm 2011(Xem: 19557)
Tôi bốc ra những sợi tóc bạc ngày xưa của má để lên bàn tay. Tôi đưa bàn tay với nhúm tóc lên mủi. Tôi nhấm nghiền đôi mắt. Mùi hương thoảng nhẹ mơ hồ trong ảo giác. Tôi khóc òa lên như một đứa trẻ trong căn nhà cũ quạnh vắng buồn hiu!
26 Tháng Năm 2011(Xem: 20437)
Ngày hôm nay viết những dòng này tôi muốn nói với các bạn rằng trong bao chia ly cuộc đời có gì hạnh phúc hơn những hạnh ngộ bằng hữu. Làm bạn với anh Tô hòa Dương ngày nọ là một trong những hạnh ngộ bằng hữu ấy
18 Tháng Năm 2011(Xem: 21617)
Tôi ở đội kỹ luật một năm rưởi được đưa ra đội nông nghiệp và được thả về nhà, tôi dùng chữ thả rất đúng nghĩa của nó, chúng ta không thể ngộ nhận chữ thả và chữ tha được vì chúng ta có tội với ai đâu mà được tha
10 Tháng Năm 2011(Xem: 20373)
em là một người mẹ chồng tuyệt vời chưa đủ, mà là một phụ nữ miền Nam tuyệt với nữa đấy, vì lúc nào cũng nhân hậu, hào phóng, dễ tính và dễ thương vô cùng.
04 Tháng Năm 2011(Xem: 19792)
Cám ơn mẹ đã cho ba con, đã cho con một ngọn lửa tình yêu không bao giờ tắt, một dòng đại dương tình yêu không bao giờ khô cằn, một bầu trời tình yêu luôn chói lòa rực sáng, ngát hương ...
04 Tháng Năm 2011(Xem: 19769)
Tôi sinh ra ở miền Bắc VN sống và trưởng thành tại Sài Gòn. 1970 gia đình rời về Biên Hòa là lúc tôi lên đường nhập ngũ làm tròn bổn phận người trai thời binh lửa.sau 1975 khi đất nước rơi vào tay CS tất cả những hoài bão tương lai của tôi biến theo thời gian
27 Tháng Tư 2011(Xem: 20549)
Em Sài Gòn diễm ảo của anh xưa Mình mất nhau mười hai mùa nắng mưa Anh cứ ngỡ đã mười hai thế kỷ…
26 Tháng Tư 2011(Xem: 19715)
Độ 7 giờ, tiếng xích của chiếc PT76 nghiến mặt đường từ từ tiến lên từ hướng chợ, khi đến gần cổng của BCH/CSQG/Quận Long-Thành dừng lại vì lựu đạn và M79 bắn xối xả của anh em phòng thủ, tôi đang ở trong bunker, nằm ngay góc Chi-khu và văn phòng ban ANQĐ/Quận, xuyên qua lỗ châu mai nhìn thấy những bóng đen lốp ngốp phía trên mui xe
24 Tháng Tư 2011(Xem: 19994)
Chất xám đã chảy rakhỏi nước rất nhiều từ cuộc di tản vĩ đại của tháng 4 năm 75, chất xám bị thui chột trong các "trại cải tạo", rồi tiếp tục rò rỉ theo những chiếc ghe vượt biên nhỏ nhoi, đầy tội nghiệp. Chưa dừng ở đó, chất xám Việt Nam tiếp tục thất thoát cho tới bây giờ,
16 Tháng Tư 2011(Xem: 21047)
Vâng, tôi sẽ im lặng cho đến chết, để xa chàng mà vẫn mang theo đời mình trọn vẹn hình ảnh người yêu đầu đời năm xưa, để con tôi vẫn giữ nguyên trong lòng sự ngưỡng mộ suốt đời nó, khi luôn luôn nghĩ rằng có một người cha đã anh dũng hy sinh vì Tổ Quốc.
03 Tháng Tư 2011(Xem: 21024)
Không biết mọi người ra sao, riêng tôi càng lớn tuổi càng thích lục lọi tìm những tấm ảnh cũ, mà mỗi tấm ảnh dù đẹp hay xấu, đã ố vàng với thời gian đều chất chứa ít nhiều kỷ niệm và nơi chốn.
03 Tháng Tư 2011(Xem: 21706)
Hôm nay, ngồi đọc và viết bài “Hương Vị Ngày Xưa”, món ăn hai miền của quê Mẹ mà lòng tôi bùi ngùi không tả. Đã mấy chục năm rồi, nơi đất nước phồn hoa này, đầy đủ các món ngon vật lạ.
03 Tháng Tư 2011(Xem: 20589)
Tôi nhớ giọt mồ hôi lấm tấm trên trán Mẹ, lom khom chụm lửa cho nồi bánh, dù Trời đang se lạnh. Tôi thương cái dịu dàng nhẫn nại của chị, ngồi nắn nót từng hũ dưa hành, dưa kiệu ngọt dịu trắng tinh
12 Tháng Ba 2011(Xem: 21048)
Vì vậy, sáng nay khi bà Tâm gọi sang để nhắc Duyên lát trưa qua chở bà đi chợ Việt Nam mua thức ăn, tiện thể xin quyển lịch “Tam Tông Miếu” (loại lịch bóc từng tờ) để bà coi ngày giờ, kiêng cữ cho cả năm, Duyên đã cười vang trong phone và nói với mẹ rằng: ”Má ơi, cái duyên “Tam Hạp”
08 Tháng Ba 2011(Xem: 20791)
Bố mẹ tôi người Bắc, di cư vào Nam lại sống trong khu xóm toàn người Bắc, nên tôi vẫn nguyên vẹn là con gái Bắc cả từ ăn nói đến cách sống ở đời.
03 Tháng Ba 2011(Xem: 19517)
Mùng Hai Tết năm đó, cô Hai Lựa dẫn thằng Cu Tí về quê ăn Tết. Bất ngờ hay tin ông Cả Mẹo vừa mới qua đời. Tin như sét đánh ngang mày, mẹ con cô vội vàng chạy u về nhà ông Cả. Vừa bước chân vào nhà thì nắp quan tài cũng vừa đóng đinh khóa chặt lại
03 Tháng Ba 2011(Xem: 20768)
Tôi sinh ra và lớn lên ở vùng đất mà các nhà địa lý Tàu cho là có long mạch, mà long huyệt nằm ngay tại cái dốc cao vút ngay tại núi Châu Thới, vì vậy nhà triệu phú người Tàu tên Hỏa chôn nơi đây, cái tên dốc chú Hỏa có từ lúc đó
03 Tháng Ba 2011(Xem: 20489)
tôi rất vinh dự đã từng là cựu học sinh trường Tiểu Học NGUYỄN DU, Biên Hòa, có truyền thống tốt đẹp lâu đời và là một trong những ngôi trường đầu tiên của quê hương chúng ta, có lịch sử gắn bó với trường Trung Học NGÔ QUYỀN.
03 Tháng Ba 2011(Xem: 18953)
Bao nhiêu năm trôi qua, không còn được ăn Tết Việt Nam đúng nghĩa, mỗi độ Tết Nguyên đán , tôi vẫn ăn Tết bằng ký ức. Trong một khoảnh khắc sống bằng trí tưởng, ngày Tết vẫn còn nguyên vị ngọt ngào của bánh mứt, vẻ êm đềm của thời thơ dại.
10 Tháng Hai 2011(Xem: 19334)
Búp ơi! Em biết không chỉ cần ba mươi giây thôi vị Nguyên thủ Quốc gia tuyên bố đầu hàng đã làm thay đổi vận mệnh của một đất nước, chôn vùi cả một dân tộc trong đau thương tủi nhục, huống hồ chi từ đây cho đến giờ xổ số, em còn cả bốn năm tiếng đồng hồ thì sự hy vọng thay đổi cuộc đời em đâu phải là không thể xảy ra phải không Búp?!
10 Tháng Hai 2011(Xem: 18708)
Anh cố tìm giấc ngủ, mấy đêm trước anh còn đi vào giấc ngủ với bao nhiêu là hình ảnh vui tươi, tuyệt vời của ngày Tết Việt Nam. Vậy mà đêm nay những hình ảnh đẹp đẽ ấy biến đi đâu hết? Anh mong sao sáng mai thức dậy, đọc báo thấy tin chính quyền Việt Nam vừa… ra lệnh cấm không cho Việt Kiều về quê ăn Tết nữa. Chắc lòng anh sẽ…vui như Tết. Khỏi phải đi đâu cả.
10 Tháng Hai 2011(Xem: 19650)
Tôi đã xa Tổ Quốc nhiều năm. Thời gian không dài nhưng cũng đủ để nhớ, quên nhưng không thể xóa mùi hương có được từ những năm tháng cũ. Làm sao quên được mùi sữa Mẹ tinh khôi những ngày chưa lớn, mùi bùn trong đầm sen cuối làng thân thiết, mùi hương hoa cỏ lẫn trong sương sớm vào mùa Hạ ấm nồng
30 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 21307)
"Cô ấy đã cho tôi sự sống, cho mẹ tôi sự ấm áp, cho tôi một mái nhà, bây giờ, tôi dành cuối đời tôi để chăm sóc cô ấy" Anh dắt tay chị đi, như ngày đó chị dắt tay đứa bé năm tuổi, họ cùng mỉm cười toại nguyện, một mối tình đẹp như những áng mây chiều êm ả trôi lờ lững ở cuối lưng trời…
29 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20479)
Sau một đêm khó ngủ, tôi nghĩ đến lời hứa con cuả tử sĩ Huỳnh Tự Trọng,sẽ kể về câu chuyện có thật này. Một bí ẩn cuả Tâm Linh, đối với tôi thật vô cùng khó giải thích. Trân trọng mời quý vị cùng xem. Và gọi là chút tình với hương linh người tử sĩ.
08 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 18992)
Khi gió muà Đông Bắc phả hơi giá lạnh lùng vào mảnh vườn hiu hắt, đầu tháng Mười Hai của mỗi năm, là tôi lại chạnh nhớ đến những mùa Giáng Sinh ngày thơ ấu. Lạ một điều là trong đáy lòng tôi bỗng ấm lại,
03 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20566)
Một câu chuyện gần gũi với đời sống hiện tại, dù biết phải “ an cư mới lạc nghiệp”, nhưng vẫn phải “liệu cơm gắp mắm” mới khỏi cảnh dở khóc dở cười khi mua một cái nhà vượt quá tầm tay.
11 Tháng Mười 2010(Xem: 19325)
Chị rất đau khổ, lặng lẽ trở về nhà. Chị nhất định không kể câu chuyện cho mẹ chồng biết, cũng như bất cứ ai.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 18493)
Tôi không có đập đìa gì hết. Tôi chỉ là một người trở về từ trại tù cải tạo với tài sản duy nhất và quý giá nhất là một cô vợ chung thủy và ba đứa con ngoan. Tôi gốc gác Biên Hòa, ngày xưa làm việc ở chi khu Long Toàn này, bị một cô nữ sinh tên là Bé Năm, nhà ở gần đó, trói cổ nên đã nhận nơi nầy làm quê hương!
04 Tháng Mười 2010(Xem: 18965)
Cái nhớ của tôi lập lại nhiều lần vào những thời điểm khác nhau. Nhớ Biên Hòa là điều có thật, hay nói cách khác là không giả dối chút nào.Không biết đêm nay tôi còn thao thức và trăn trở với nỗi nhớ Biên Hòa hay không?