9:50 SA
Thứ Năm
25
Tháng Tư
2024

NGUYỄN TẤT NHIÊN MỘT TRƯỜNG THIÊN KỊCH BẢN BI AI - ĐỖ TRƯỜNG

03 Tháng Ba 20228:33 SA(Xem: 4486)

NGUYỄN TẤT NHIÊN

MỘT TRƯỜNG THIÊN KỊCH BẢN BI AI

(Mục chân dung nhà văn- Đỗ Trường)
TẤT NHIÊN

Khi ngôi sao mai Nguyễn Nho Sa Mạc chợt vụt tắt, khoảng trống để lại tưởng như khó có thể bù lấp, thì may mắn thay, trên vòm trời thi ca xuất hiện một Nguyễn Tất Nhiên. Tuy còn tuổi học trò, và khác nhau về thi pháp sáng tạo, nhưng có thể nói, Nguyễn Nho Sa Mạc và Nguyễn Tất Nhiên là hai thi sĩ đích thực. Sự xuất hiện của họ góp phần làm dịu mát, và giải tỏa sự bế tắc của văn thơ, cũng như âm nhạc miền Nam trong giai đoạn chiến tranh khốc liệt nhất của dân tộc.

Đọc và đi sâu vào nghiên cứu, ta có thể thấy, thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên tên thật là Nguyễn Hoàng Hải, sinh năm 1952 tại Biên Hòa. Ông là hiện tượng rất đặc biệt của văn học miền Nam. Cái đặc biệt ấy, không chỉ ở tài năng chín sớm, mà ta còn thấy rõ ý tưởng, cũng như hình tượng và ngôn ngữ mới lạ trong thơ Nguyễn Tất Nhiên.

Thật vậy, 14 tuổi (năm 1966) cùng với Đinh Thiên Phương, cậu học trò Nguyễn Hoàng Hải với bút danh Hoài Thi Yên Thi đã cho xuất bản tập thơ đầu tay Nàng Thơ Trong Mắt. Năm 16 tuổi, Hoài Thi Yên Thi in chung tập thơ thứ hai Dấu Mưa Qua Đất cùng với bút đoàn Tiếng Tâm Tình. Và sau khi đổi bút danh thành Nguyễn Tất Nhiên, ông cho xuất bản Thiên Tai vào năm 1970. Thi tập này là thẻ thông hành, đã đưa Nguyễn Tất Nhiên thẳng vào làng văn. Đây là dấu mốc quan trọng nhất trong sự nghiệp sáng tạo của Nguyễn Tất Nhiên. Dù lúc đó ông vẫn còn ngồi trên ghế trung học Ngô Quyền, Biên Hòa. Ngay sau đó, một loạt thi phẩm của Nguyễn Tất Nhiên được các nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, Phạm Duy phổ nhạc, tên tuổi ông càng đóng đinh vào lòng người đọc nhiều hơn, nhất là giới sinh viên, học sinh. Năm 1978, Nguyễn Tất Nhiên vượt biên, và tị nạn tại Pháp. Và ở đó, nhà xuất bản Nam Á đã ấn hành thi tập “Thơ Nguyễn Tất Nhiên“ vào năm 1980. Khi đến định cư tại Hoa kỳ, Nguyễn Tất Nhiên cho in ấn và phát hành Chuông Mơ (1987) Tâm Dung (1989) cùng thi tập Minh Khúc. Đặc biệt tập nhạc Những Năm Tình Lận Đận của ông sáng tác từ khi còn ở trong nước cho đến ra hải ngoại, do nhà xuất bản Tiếng Hoài Nam, Hoa Kỳ ấn hành, vào năm 1984. Nếu đọc, và nghiên cứu đầy đủ, ta có thể thấy, ba khía cạnh chính làm nên chân dung nhà thơ tài hoa Nguyễn Tất Nhiên: Tình yêu, ý tưởng và những hình tượng trong thơ, cũng như chiến tranh, sự phân ly tác động đến tư tưởng, cùng cuộc sống bế tắc với nỗi đau tuyệt vọng của ông.

Năm 1992, bước vào tuổi bốn mươi, có lẽ trái tim mong manh, dễ vỡ của người nghệ sĩ Nguyễn Tất Nhiên, không vượt qua được cái bế tắc của cuộc sống, cũng như tâm hồn, nên ông đã tự kết thúc cuộc đời mình. Sự ra đi đang ở độ chín, và sung sức nhất của Nguyễn Tất Nhiên, làm cho rất nhiều người ngơ ngác và tiếc nuối. Và khoảng trống ông để lại không hề nhỏ, suốt mấy chục năm qua, chưa người (thi sĩ học trò) nào có thể thay thế, bù lấp.
*Tình yêu, ý tưởng và hình tượng mới lạ trong thơ.

Tình yêu chiếm một vị trí quan trọng nhất trong sự nghiệp sáng tạo của Nguyễn Tất Nhiên. Đọc ông, làm tôi nhớ đến thi sĩ Đinh Hùng. Bởi, cái chất cuồng nhiệt đến tận cùng, với những hành động mà người đời cho là điên điên khùng khùng, tỉnh tỉnh say say ấy trong tình yêu của hai thi sĩ quyện chặt vào nhau đến vậy. Không rõ, Nguyễn Tất Nhiên có đọc, hoặc chịu ảnh hưởng tí ti nào từ Đinh Hùng hay không? Bởi, khi đọc ông sự ám ảnh cứ vẩn vơ đeo bám tôi, y như đọc thơ Đinh Hùng vậy. Tuy nhiên, một chừng mực nào đó, tôi nghĩ, Nguyễn Tất Nhiên có chịu ảnh hưởng ý tưởng, xây dựng hình tượng từ Du Tử Lê, ở một số bài viết vào khoảng năm 1970- 1971. Ta có thể thấy, cùng viết nỗi đau của tình yêu: “ Tình yêu như dao nhọn/ Anh đâm mình, lút cán“ và “ Về như dao nhọn/ ngọt ngào vết đâm“ hai hình tượng so sánh trong Khúc Thụy Du của Du Tử Lê, và Khúc Tình Buồn của Nguyễn Tất Nhiên khá tương đồng. Và tất nhiên, Khúc Thụy Du đã ra đời sớm hơn Khúc Tình Buồn của Nguyễn Tất Nhiên hai năm.

Cái Tôi, cái nghệ thuật vị nghệ thuật là nền tảng, xương sống để làm nên khung thơ Nguyễn Tất Nhiên. Mỗi bài thơ được vắt ra từ cảm xúc của những mối tình đơn độc, nghiệt ngã trong ông. Và thủ thuật đưa tên tuổi thật của người yêu vào thơ, để gõ vào tâm lý (tò mò) của người đọc, nhằm đào sâu vào giá trị chân thực. Tuy nhiên, thủ pháp này, không phải là mới. Bởi, trước Nguyễn Tất Nhiên có Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng hay Du Tử Lê… đã sử dụng nghệ thuật này. Nhưng ở lứa tuổi học trò dám sử dụng, và sử dụng hay như Nguyễn Tất Nhiên, không phải nhà thơ nào cũng làm được. Do những đặc tính trên, nên những bài thơ này, thường có sức sống rất lâu dài. Hoặc trở thành những giai thoại, hay câu chuyện tình sử để lại cho hậu thế:

“…nếu vì em mà ta phải điên tình
cơn giận dữ đã tận cùng mê muội
thì đừng sợ, Duyên ơi, thiên tài yếu đuối
tay tre khô mối mọt ăn luồn
dễ gãy dòn miểng vụn tả tơi xương
khi tàn bạo siết cổ người yêu dấu!
em chẳng bao giờ rung động cũ
ta năm năm nghiệt ngã với tình đầu…“
(Duyên của tình ta con gái Bắc)

Thơ và tình yêu, hai thứ đam mê, cuồng nhiệt nhất đối với Nguyễn Tất Nhiên. Thất bại tình yêu đầu đời như một nhát dao chém tâm hồn ông. Để rồi, mang theo những vết thương bốn mùa luôn mưng mủ ấy, cùng nỗi thất vọng và cô đơn, Nguyễn Tất Nhiên cuộn mình vào trong thơ. Và tưởng chừng thơ ca sẽ làm giảm bớt nỗi đau, giải thoát linh hồn người thi sĩ. Nhưng không phải vậy, bởi cái thất vọng ấy, nỗi đau ấy ủ trong thơ còn nhức nhối, và day dứt hơn sức chịu đựng của con người. Chỗ Tôi, là một bài thơ đã bật ra từ cái ung ủ như vậy của Nguyễn Tất Nhiên. Xét về nghệ thuật, đây là một bài thơ dở của ông, nhưng đọc, ta thấy được sự đắng cay, ê chề, như một lời tự thú của thi nhân vậy:

“Tôi có chỉ cho gia đình
Người tôi yêu
Là một nàng con gái Bắc
Mẹ tôi hai lần nhìn
Dáng em đi
Và nói nó còn nhỏ dại
Không hiểu nó thương mày chỗ nào
Tôi trả lời chỗ con làm thi sĩ
Tuy nhiên tôi vừa đau nhói trái tim
Vì hiểu rằng
Muôn đời
Em vẫn ngó tôi nửa mắt
Có gì đâu
Thiên hạ lâu nay cứ nhạo báng tôi khùng!“

Cũng như Lục bát, thơ Ngũ ngôn rất dễ làm, song khó hay. Bởi, từ thơ đến vè có khoảng cách rất gần, nếu nhà thơ không thực tài. Tuy nhiên, ta có thể thấy, những bài thơ hay của Nguyễn Tất Nhiên thường thuộc về thể thơ này. Ngũ ngôn thơ Nguyễn Tất Nhiên hay, không phải chỉ ở tài năng sử dụng từ ngữ, mà còn ở sự hình tượng hóa, cũng như ý tưởng mới lạ. Nhìn lại văn học sử, dường như chưa ai dám cả gan đưa những hình tượng thánh thiện nơi Thánh đường, cửa Phật để ẩn dụ, so sánh với những cái được cho là kỵ húy như Nguyễn Tất Nhiên. Sự so sánh, tưởng chừng như bất nhã ấy, nhưng thật kỳ lạ, hình ảnh trong thơ Nguyễn Tất Nhiên hiện lên rất độc đáo và tinh tế, đẹp một cách trong sáng và hồn nhiên. Và Ma Soeur là một trong những bài thơ như vậy. Vâng, dù bao nhiêu hạt mưa rơi cũng chưa đủ, chưa thấm bằng tình của người thi sĩ rụng xuống linh hồn thánh thiện ấy:

“vai em tròn dưới mưa/ ướt bao nhiêu cũng vừa/ cũng chưa hơn tình rụng/ thấm linh hồn ma-sơ“.

Một hình tượng so sánh ẩn dụ, dường như, thi nhân muốn khỏa lấp nỗi đắng cay, bất lực, cùng thủ thuật nhân cách hóa, (hay tưởng tượng) để tự ru hồn mình vậy. Đây là bài thơ rất hay của Nguyễn Tất Nhiên. Và Phạm Duy phổ thành ca khúc: Em hiền như Ma Soeur, được nhiều người ưa thích từ gần nửa thế kỷ qua:

“…em hiền như ma-sơ
vết thương ta bốn mùa
trái tim ta làm mủ
ma-sơ này ma-sơ
có dịu dàng ánh mắt
có êm đềm cánh môi
ru ta người bệnh hoạn
ru ta suốt cuộc đời
cuộc đời tên vô đạo
vết thương hành liệt tim!…“

Có thể nói, Nguyễn Tất Nhiên là nhà thơ giàu trí tưởng tượng. Tài năng sáng tạo từ mới, cụm từ mới để tạo nên những hình tượng độc đáo, táo bạo gây sửng sốt, thú vị cho người đọc, xuất hiện ngay từ ngày đầu cầm bút của ông. Nếu ở bài Ma Soeur, Nguyễn Tất Nhiên đã dùng thủ pháp so sánh hình tượng hóa sự thánh thiện của người tình, thì đến với Linh Mục, ông hóa thân cho chính mình, để tìm dĩ vãng, đi đến tận cùng sự thật của cái địa ngục tình yêu ấy:

“ Vì tôi là linh mục/ giảng lời tình nhân gian/…tín đồ là người tình/ người tình là ác quỷ/ ác quỷ là quyền năng“.

Thật vậy, những cụm từ so sánh ẩn dụ cũ kỹ và dân dã này, đã được thi sĩ đặt đúng văn cảnh trong cái ý tưởng độc đáo của mình, nó trở thành nghĩa mới, hình tượng mới. Bởi vậy, nó gây cảm hứng cho nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang chuyển thành ca khúc Vì Tôi Là Linh Mục, được mọi tầng lớp đón nhận, yêu thích, nhất là giới trẻ. Đây là một trong những đặc tính làm nên hồn thơ đặc trưng riêng Nguyễn Tất Nhiên. Đặc tính này xuyên suốt sự nghiệp sáng tạo của ông:

“dĩ vãng là địa ngục
giam hãm đời muôn năm
tôi – người yêu dĩ vãng
nên sống gần Satan
ngày kia nghe lời quỉ
giáng thế thêm một lần
trong kiếp người linh mục
xao gầy cơn điên trăng!

vì tôi là linh mục
giảng lời tình nhân gian
nên không có thánh kinh
nên không có bổn đạo
nên không có giáo đường
một tín đồ duy nhất
vừa thiêu huỷ lầu chuông!…“

Tôi không cân đong, đo đếm kỹ lắm, nhưng dường như thơ Nguyễn Tất Nhiên nằm trong Top được phổ nhạc nhiều nhất từ trước đến nay? Bởi, ngoài ngôn ngữ giầu nhạc tính, thanh âm, thì ý tưởng mới lạ trong thơ của ông tạo ra rất nhiều cảm hứng cho các nhạc sĩ sáng tạo. Và cái ý tưởng ấy, như một luồng gió mới thổi vào cái không khí âm nhạc thời chiến lúc đó. Thật vậy, một loạt các ca khúc của Phạm Duy ra đời từ thơ Nguyễn Tất Nhiên. Đặc biệt có ca khúc Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ, Phạm Duy đã mượn ý tưởng bài thơ Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ và cảm hứng từ Đám Đông để viết nên. Có thể nói, đây là bài thơ điển hình về tài năng trí tuệ liên tưởng của Nguyễn Tất Nhiên, đã giúp cho Phạm Duy chuyển thành một ca khúc hay đến vậy. Và hơn thế nữa, với tài năng của mình, Phạm Duy vẫn giữ nguyên được sự nhẹ nhàng, tính vui nhộn cùng từ ngữ mộc mạc của bài thơ:

“cô Bắc Kỳ nho nhỏ/ tóc “demi-garçon”/ chiều đạp xe vô chợ/ mắt như trời bao dung/ đời chia muôn nhánh khổ/ anh tận gốc gian nan/ cửa chùa tuy rộng mở/ tà đạo khó nương thân/…qua giáo đường kiếm Chúa/ xin được làm chiên ngoan/ Chúa cười rung thánh giá/ bảo: đầu ngươi có sừng!“.

Vẫn mang tâm trạng oán trách buồn đau, khắc khoải của Hai Năm Tình Lận Đận, do Phạm Duy phổ nhạc, Anh Bằng đã đưa bài lục bát Trúc Đào vào âm nhạc mượt mà, và nhẹ nhàng hơn. Song nó vẫn giữ nguyên được hồn vía của bài thơ. Với tôi, Trúc Đào là một bài thơ hay nhất ở thể lụt bát của Nguyễn Tất Nhiên. Nó không chỉ hay về nội dung tư tưởng, mà có lời thơ rất mượt mà

“Chiều xưa có ngọn trúc đào/ Mùa thu lá rụng bay vào sân em…“

Tuy nhiên, Khúc Tình Buồn được Phạm Duy phổ nhạc với lời tựa Thà Như Giọt Mưa, cho tôi nhiều cảm xúc nhất. Khúc Tình Buồn thuộc thể tứ ngôn, là một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Tất Nhiên. Bài thơ, ông viết khi đang là học sinh năm cuối trung học. Vẫn thủ pháp so sánh ẩn dụ, Nguyễn Tất Nhiên đã mượn hiện tượng của tự nhiên giãi bày nỗi lòng đớn đau, sự bất lực của kẻ si tình, của một tình yêu đơn phương:

“thà như giọt mưa/ vỡ trên tượng đá/ thà như giọt mưa/ khô trên tượng đá/ có còn hơn không“.

Để rồi, từ trong nỗi bất lực, và tình si ấy, người đọc mới chợt nhận ra, cái giá trị tuyệt đối và vĩnh cửu của tình yêu. Tuy nhiên, bác nào đang bị tình phụ, hay tình đơn phương, tim mạch yếu kém, thì chớ nên đọc bài thơ này:

“người từ trăm năm
về qua sông rộng
ta ngoắc mòn tay
trùng trùng gió lộng
người từ trăm năm
về khơi tình động
ta chạy vòng vòng
ta chạy mòn chân“

Nếu trước đó, văn học sử Việt không có những thi sĩ thiếu niên Chế Lan Viên với Điêu Tàn, Tế Hanh với Nghẹn Ngào, hay Nguyễn Nho Sa Mạc với Trăng Lạnh, thì có lẽ không ai tin thi phẩm Thiên Tai là do người học trò trung học Nguyễn Tất Nhiên viết ra. Bởi, sự già dặn của bút pháp cũng như tư tưởng, với những câu thơ được ủ chín tâm hồn thi nhân. Tôi không biết chính xác, bài thơ Oanh được Nguyễn Tất Nhiên viết từ khi nào. Nhưng chắc chắn, nó được viết trước tập Thiên Tai, lúc đó ông đang học lớp 10 hoặc lớp 11. Một bài thơ già dặn, và lời thơ tuyệt đẹp:

“Hãy yêu chàng, yêu chàng như yêu cánh gió/ Chơi giỡn tung tăng hai vạt áo dài/ Gió đưa mây về, trời mưa, bong bóng vỡ/ Chàng đưa tình về, xót ngọn cỏ may“.

Bài Thiên Thu viết năm Nguyễn Tất Nhiên 18 tuổi. Với bài thơ này, Nguyễn Tất Nhiên có thể ngồi cùng mâm nhấc lên đặt xuống với các cụ Đinh Hùng, Bùi Giáng…Du Tử Lê rồi. Với tôi, đây là bài thơ toàn bích nhất của Nguyễn Tất Nhiên. Đọc nó, tôi bị ám ảnh, mộng mị hết mấy đêm liền. Cả bài thơ là một câu hỏi tu từ. Không một lời giải đáp, buộc Nguyễn Tất Nhiên lìa hồn mình ra khỏi của cái thế giới hiện thực. Ông co giò chạy trốn quá khứ. Nhưng chạy đâu cũng thấy “chạy vòng vòng“ đang “chạy mòn chân“ rồi quay về với cái hiện hữu của chính mình. Vâng, đó cũng như một trường thiên kịch bản bi ai, vận vào chính cuộc sống cũng như tâm hồn Nguyễn Tất Nhiên vậy:

“…sao thiên thu không là thiên thu?/ nên những người yêu là những ngôi mồ/ tôi đứng một mình trong nghĩa địa/ và chắc không đành quên khổ đau!“.

Đang định viết lời kết cho giai đoạn này, cũng như nguyên nhân dẫn đến sự thành công rất sớm của Nguyễn Tất Nhiên, chợt làm tôi nhớ đến câu chuyện. Hôm rồi, tân gia nhà một người bạn, trong lúc khật khừ, tôi buột miệng nói với một bác nhà thơ cộng đồng đến từ Berlin: Với tôi, kể từ sau 1954 đến nay (2019) văn học Việt Nam ở tuổi học trò, có hai thi sĩ tài năng nhất. Đó là Nguyễn Nho Sa Mạc, người xứ Quảng, với tập thơ Vàng Lạnh, và nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên người xứ Nam, với tập thơ Thiên Tai. Bác nhà thơ này, goặc lại tôi: Ông nói thế chó nào ấy chứ, xứ Bắc có không ít các thần đồng thơ, chả lẽ không đáng nói đến sao. Tôi bảo bác ấy: Đây là ý kiến chủ quan của cá nhân tôi, có thể là sai. Nhưng ta có thể thấy, trong giai đoạn đó ở miền Bắc cũng xuất những tài năng thi phú trẻ, và được gắn mác mỏ thần đồng như: Hoàng Hiếu Nhân, hay Trần Đăng Khoa… Tuy nhiên, các thần đồng thi ca này, được các nhà thơ tên tuổi Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Trần Nhuận Minh… chăm sóc, định hướng tư tưởng rất kỹ càng. Do vậy, có những câu thơ của họ đọc lên cứ tưởng của Diệu, của Chế, của Minh. Hơn nữa, mấy “thần đồng“ này chỉ làm được thơ thiếu niên, nhi đồng. Sau này, Hoàng Hiếu Nhân bị tịt ngòi không viết lách được nữa. Còn Trần Đăng Khoa viết lay lắt, với những dấu ấn mờ nhạt. Thành thật mà nói, nếu ngoa ngôn dùng danh từ thần đồng để đo lường tài năng thi phú, thì với tôi, kể từ khi xuất hiện thơ mới đến nay, chỉ xảy ra một lần duy nhất. Đó là cậu bé thần đồng Chế Lan Viên với thi tập Điêu Tàn. Một tập thơ vừa ra đời đã trở thành cổ thi.

Kinh hơn nữa, thời gian gần đây chẳng hiểu ăn phải cái bả gì, mà ông Giáo sư Phong Lê, ông Phó chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam “cựu thần đồng“ Trần Đăng Khoa cùng một số nhà thơ, nhân vật tên tuổi phát động cuộc thi “Sáng tác văn tế Đại thi hào Nguyễn Du”. Một việc làm hoặc ấu trĩ, hoặc của chùa cùng nhau chia oản. Quả thực, xa Việt Nam đến quá nửa đời người, vậy mà nghe cái từ phát động, với phong trào tôi sởn hết cả người.

Nghệ thuật Lục bát, tài năng thi phú của cụ Nguyễn Du đã được khẳng định từ mấy trăm năm qua cùng với Kiều Truyện. Không còn bàn cãi. Tuy nhiên, hồn vía của tác phẩm này thuộc về anh ba Tàu phương bắc. Do vậy, với tôi những tác phẩm Việt thuần chủng (Việt tính) đi vào lòng người hơn, từ mấy trăm năm qua phải là: Đặng Trần Côn với Chinh Phụ Ngâm, hay Nguyễn Gia Thiều với Cung Oán Ngâm Khúc.

Dài dòng một chút về vấn đề này để cho thấy, miền Bắc không phải, không có những tài năng trẻ, từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Nhưng với sự dẫn dắt, tư tưởng đến nay vẫn còn như thế này, thì tài năng nào không thui chột, hoặc biến dạng mới là chuyện lạ. Cũng may, Nguyễn Tất Nhiên sinh trưởng ở miền Nam, bằng không cũng mất hút con mẹ hàng lươn như “thần đồng thơ“ Hoàng Hiếu Nhân trên thi đàn là cái chắc.
*Chiến tranh, cùng nỗi thống khổ sau cuộc chiến.

Sinh ra và lớn lên trong giai đoạn tang thương nhất của đất nước, tuy không phải là người lính, song Nguyễn Tất Nhiên cũng không thể bước ra khỏi cuộc chiến ấy. Tuy nhiên, cứ tưởng, thơ văn thi phú của ông chỉ ngắc ngư với giăng hoa, ong bướm, Oanh, Duyên, Minh Thủy. Nhưng tôi đã lầm. Mảng viết về thế sự, xã hội tình người của Nguyễn Tất Nhiên không hề nhỏ. Viết về chiến tranh, dường như bút pháp, cũng như nội dung hiện thực ông đào sâu vào khía cạnh rất khác so với các thi sĩ cùng thời. Bởi, đọc ông, tôi không hề thấy tiếng bom rơi, đạn nổ, vậy mà khói lửa, chết chóc thương đau trải dài trên trang thơ của ông. Thật vậy, vừa rời ghế nhà trường, (19 tuổi) Nguyễn Tất Nhiên đã viết “Chiều Mệnh Danh Tổ-Quốc”. Một bài thơ, không chỉ người lính, hoặc những người trải qua chiến tranh, mà tôi, kẻ chưa hề biết đến súng đạn, vậy mà ngồi đọc, và viết cũng phải rưng rưng:

“…Chiều quân đội nghĩa trang
Chiều mệnh danh tổ quốc
Có muôn ngàn câu kinh
Có muôn ngàn tiếng khóc

Có chuyến xe nhà binh
Đưa “Thiên Thần” xuống đất
Còn ai, còn ai chăng ?…“

Có thể nói, từ thơ tình đến thơ thế sự của Nguyễn Tất Nhiên bài nào cũng vậy, rất nhẹ nhàng, không hề lên gân, song đã gieo vào lòng người đọc nỗi đau day dứt khôn nguôi. Vào giai đoạn cuối của cuộc chiến, thân phận người lính càng bi đát hơn. Sự kiên cường của họ trước sự hèn nhát, tháo chạy của những cấp lãnh đạo cao nhất, làm cho Nguyễn Tất Nhiên xúc động:

“Về trên nạng gỗ mà trông/ Lô nhô lãnh đạo cong lưng bôn đào”.

Thật vậy, sự đồng cảm đối người lính trong thơ ông, không chỉ trong chiến tranh, mà ngay sau cuộc chiến, ta càng thấy đậm nét hơn. Chiến tranh qua đi, nỗi đau về thể xác lẫn tâm hồn của người lính thương phế binh, và những hệ lụy cho gia đình, cháu con còn bi thương, rách nát hơn gấp nhiều lần. Về Trên Nạng Gỗ là một bài thơ như vậy. Nó là một trong những bài thơ thế sự hay nhất, từ trước đến nay, mà tôi đã được đọc. Tính hiện thực như một bản cáo trạng đối với chế độ xã hội đương thời của nhà thơ, cùng lời cảm thông sâu sắc, xoa dịu nỗi đau của con người. Đọc xong bài thơ này, tôi không còn biết đây là thơ, hay là lời ru nỗi đau của Nguyễn Tất Nhiên. Các bạn đọc lại đoạn trích dưới đây, xem có cảm giác như tôi không:

“…Về trên nạng gỗ mà trông
Chín năm chinh chiến đeo tròng nguỵ quân
Con thơ nhục nhã đến trường
Ê a phỉ báng máu xương cha mình
Cha “lính nguỵ” – con tự nhiên
Thành phần không được ngóc lên làm người
Học vừa đủ biết đọc thôi
Đủ làm gia súc hiểu lời Đảng sai
Hãy cười đi phế binh ơi
Một tay cũng rán mà… moi củ mì
Từ đây dỗ đói thường khi
Ru con tôi hát não nề ca dao“

Cái đau của người thi sĩ là ru được người chứ không thể ru được chính mình, tâm hồn mình. Do vậy, trong cái bi đát đó, Nguyễn Tất Nhiên buộc phải trốn chạy, hay tìm đến: “Ta mời ta viếng mộ/ Lìa thảm cảnh dương gian“. Và cầu Nại Hà cũng đã bị gãy nhịp, người thi sĩ quay về nơi địa ngục. Không nghe lời sám hối, mà vọng lên tiếng kêu than thỉnh cầu của thi nhân: “Phải sống nơi địa ngục/ Mới hiểu thấu thân ta“. Dường như không có lời đáp vọng lại. Bởi, sự bất lực, hấp hối tro tàn ấy, đâu chỉ riêng thi sĩ:

“…Ta mời ta viếng mộ
Lìa thảm cảnh dương gian
Chúc Phật còn lui chân
Trước bạo quyền chế độ
Huống hồ chút hư danh
Nguyễn Tất Nhiên thống khổ
Ôi chữ nghĩa văn chương
Bất lực, càng bất lực
Phải sống nơi địa ngục
Mới hiểu thấu thân ta
Đôi mắt người ngây thơ
Không hề vương vấn tội
Có chở tình ta theo
Tới cõi nào diệu vợi?
Lửa đời ta đã lụn
Đang hấp hối tro tàn“ (Tháng 11, Thơ Mưa)

Thành thật mà nói, chỉ khi đi sâu vào đọc, tôi mới nhận ra thơ văn Nguyễn Tất Nhiên luôn gắn liền với xã hội và đời sống của con người. Thơ của ông có tính thời sự cao. Tôi nghĩ, mảng đề tài này góp phần không nhỏ làm nên sự nghiệp sáng tạo của ông. Nhưng dường như, bấy lâu nay chúng ta đã quên hẳn nó. Do vậy, văn học sử Việt Nam rất cần những nhà nghiên cứu khai quật, đánh giá cho thật đầy đủ, và khách quan về thơ văn Nguyễn Tất Nhiên.
Chia ly, với cuộc sống bế tắc, cùng những nỗi đau tuyệt vọng.

Ra đi là con đường duy nhất để giải thoát Nguyễn Tất Nhiên ra khỏi nơi địa ngục. Con thuyền lá tre kia vừa cập bến tự do, thì linh hồn ông đã chết ngay khi đặt chân lên miền đất lạ:“kẻ vượt biển đã tới bến mạnh lành/ nhưng chết ngay khi đặt chân lên bờ đất“. Những mâu thuẫn nội tâm, và bi kịch của người thi sĩ bắt đầu từ đó. Để rồi, cuộc sống và thi ca Nguyễn Tất Nhiên luẩn quẩn trong cái vòng tròn định mệnh ấy. Có thể nói, đây là tâm lý chung của tất cả các văn nghệ sỹ trốn chạy sau biến cố 1975, chứ không riêng Nguyễn Tất Nhiên. Tuy nhiên, sự hòa nhập, nghị lực và khát vọng tự do, khát vọng sống của mỗi con người khác nhau. Bài thơ Paris, Khúc Tháng Chín  được Nguyễn Tất Nhiên viết trong tâm trạng, và hoàn cảnh như vậy. Đây là bài thơ hay, một lần nữa chứng minh cho ta thấy, sự liên tưởng, trí tưởng tượng phong phú của ông:

“…kẻ leo rào đã chụp được Tự Do
nhưng tức thời buông tay bổ ngửa
là ta

phải, ta đánh rơi ta
nát vụn
sau khi đánh rơi Việt Nam
bên kia bờ biển mịt

cây cối sẽ phục sinh vào đầu tháng tư năm tới
phần ta
cách gì tươi tắn lại
khi đời đã sang thu
cộng với lần bứng gốc…“

Những năm tháng ly hương, cuộc sống Nguyễn Tất Nhiên, dường như hồn đã lìa khỏi thân xác. Với ông, đó là những nỗi đau và cô đơn không có thể bù lấp: “Quê hương đã lìa/ Người tình đã xa/ Bạn bè đã tàn/ Mọi thứ đã rã tan cùng đại dương xanh”. Do vậy, với tâm hồn, nghị lực mong manh yếu đuối luôn làm cho người thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên chán nản bi ai: “Có lẽ em không hay/ Đôi cách chàng đã gãy“. Tuy vậy, cùng nỗi nhớ thường trực, trái tim mẫn cảm của người nghệ sĩ luôn hướng về quê hương, đất nước. Nhớ Nội, là một bài thơ thất ngôn như vậy. Một bài thơ hay và cảm động, tiêu biểu cho tâm trạng của Nguyễn Tất Nhiên trong giai đoạn này:

“…từ lúc giặc về, con biệt xứ
nát lòng chim quốc nhớ quê hương
mấy thu vàng úa đời xa cội
chẳng biết mộ phần nội có yên?“

Bi kịch gia đình, bi kịch xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng, và thi pháp sáng tác của Nguyễn Tất Nhiên. Đây là giai đoạn nặng nề, cùng cực, cô đơn nhất của ông. Do vậy, những bi ai, u uất đã trải dài từ thi tập Tâm Khúc cho đến Minh Khúc. Sự chia ly, đổ vỡ của tình yêu và gia đình“…như dao nhọn/ ngọt ngào vết đâm“ tan nát trái tim Nguyễn Tất Nhiên. Ông bất lực trong nỗi bơ vơ, và trống trải:

“bây giờ em đã xa tôi/ hay là sông núi xa đời lãng du…chim đêm hót tiếng đau tình/ đau tim tôi chở lòng thành kiếm em… “.

Giai đoạn này, dường như ông hòan toàn quay về với thể thơ lục bát. Những câu thơ của ông đọc lên như có tiếng ru đời và ru mình vậy. Vâng, hai tập thơ lục bát, cũng không thể cứu rỗi được hồn người thi sĩ. Đoạn trích về nỗi đau, và cô đơn trên con đường mịt mù sương khói trong bài Minh Khúc 90 đã báo hiệu số phận của Nguyễn Tất Nhiên:

“đường không gian – đã phân ly
đường thời gian- đã một đi không về
những con đường mịt sương che
tôi vô định lái chuyến xe mù đời
cu tí ngủ gục đâu rồi?
băng sau, ngoái lại, bời bời nhớ con…“

Có thể nói, nghị lực, và trái tim đa cảm của thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên không thể vượt qua được nghịch cảnh ở nơi miền đất lạ. Nó làm cho ông khủng khoảng tinh thần trong nỗi cô đơn đến tuyệt vọng. Nếu nói, cuộc đời Nguyễn Tất Nhiên là một bi kịch, thì diễn viên là ông, và đạo diễn cũng là ông. Và kịch bản ông viết từ hai mươi năm trước đã vận vào đúng cuộc đời, cái chết của diễn viên Nguyễn Tất Nhiên vậy:

“Ta phải khổ cho đời ta chết trẻ
Phải ê chề cho tóc bạc với thời gian
Phải đau theo từng hớp rượu tàn
Phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định“.

Tôi thuộc thế hệ sau Nguyễn Tất Nhiên khá xa, và cũng chưa một lần gặp gỡ, hoặc được quen biết ông. Tuy nhiên, tên tuổi Nguyễn Tất Nhiên, tôi đã biết khá lâu, khi đọc, hoặc viết về một số nhà văn gốc miền Nam khác. Đôi lúc tâm trạng buồn, vui tôi thường đàn hát những bản nhạc phổ từ thơ của ông, hoặc do ông sáng tác. Và Không hiểu tại sao, vài tuần nay như có một sợi dây tâm linh nào đó thôi thúc, buộc tôi tìm đọc, rồi viết về Nguyễn Tất Nhiên. Dù tôi cũng là “tên vô đạo“ như ông. Đọc và viết trong vài tuần, sau giờ làm việc, do vậy, tôi nghĩ, không tránh khỏi những thiếu sót, hoặc sai lệch. Nhưng đã đọc, mà không viết, cứ để ứ hự ở trong lòng thì quả thật, có lỗi với Nguyễn Tất Nhiên thi sĩ.

Leipzig 
Đỗ Trường

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
20 Tháng Hai 2012(Xem: 21926)
Mình xem kìa! mùa thu sắp tàn, nhưng vẫn đẹp lắm, nếu biết nhìn, ta sẽ thấy mỗi mùa đều có vẻ đẹp riêng của nó. Và này… mình ơi! trên chặng đường cuối cùng, chúng ta vẫn còn đủ cả đôi, đó chẳng phải là một điều may mắn hay sao?
19 Tháng Hai 2012(Xem: 21231)
Mong vô cùng một ngày nào đó , chúng ta sẽ có một David, Ted, Anthony, William... Nguyễn, Phạm, Lê, Huỳnh… ở Mỹ; hay một Pierre , Daniel, Francois, Jean… Trần, Ngô, Đặng, Lý… ở Pháp, hay một Tuấn, Sơn, Minh, Nam.. Bùi, Đoàn, Phan, Trương ở Việt Nam...đi tiếp được con đường ông Steve Jobs đã đi. Lúc đó chắc là bưởi Biên Hòa, chôm chôm Long Khánh, măng cụt Lái Thiêu , hay nhãn lồng ở Huế sẽ có chỗ đứng trang trọng cạnh bên trái táo cắn dở mà ông Steve Jobs đã vĩnh viễn bỏ lại sau lưng...
19 Tháng Hai 2012(Xem: 26522)
Xã hội Việt Nam ngày nay oan trái chập chùng, tang thương như thế! Nếu không biết cùng nhau toan liệu, ngày một ngày hai càng đổ nát, vô phương xoay trở! Hãy cùng nhau vùng lên tự cứu!
18 Tháng Hai 2012(Xem: 20196)
Sài Gòn như một người tình đầu đời, để cho ta bất cứ ở tuổi nào, bất cứ đi về đâu, khi ngồi nhớ lại, vẫn hiện ra như một vệt son còn chói đỏ. Sài Gòn như một mảnh trầm còn nguyên vẹn hương thơm, như một vết thương trên ngực chưa lành, đang chờ một nụ hôn dịu dàng đặt xuống.
17 Tháng Hai 2012(Xem: 20261)
Tôi lặng thinh, cô đơn trên bãi vắng, một mình. Không biết mấy ngày. Không biết mấy đêm. Bây giờ tôi không đủ sức để khóc thì làm sao đủ sức để nối hay gỡ những mối dây định mệnh.
14 Tháng Hai 2012(Xem: 20386)
Đáng lẽ với tình trạng đó, con Sơn ca phải ẩn mình - dù phải chờ chết cũng phải giấu biệt bộ lông xơ xác của mình để mọi người còn giữ được trong lòng những hình ảnh và sự nuối tiếc tuyệt đẹp về cô. Tôi thương cô, mong mỏi cô bình an hơn, ở một nơi nào đó....
13 Tháng Hai 2012(Xem: 23347)
Các anh chị cũng tự hào kể về cha mình, dù tuổi cao, sức yếu, vẫn đóng góp công sức cho cộng đồng người Việt đồng hương qua những buổi họp hội đoàn, đóng góp những đồng bạc chắt chiu do con cháu gởi tặng, những đồng tiền dành cho người già của chánh phủ Mỹ cho hàng tháng để dành tặng cho hội H.O và T.P.B, trẻ em nghèo khổ
12 Tháng Hai 2012(Xem: 27758)
Ở bên này, không có giống mai vàng mộc mạc má yêu thương. Những khi nhớ má, thì thật ngược đời, tôi lại khát khao được nâng niu một cánh mai vàng. Lúc ấy mà được ở bên nhà, tôi nhất định sẽ cùng má bón phân, tưới nước cho mai.
12 Tháng Hai 2012(Xem: 22002)
“Nhốt mầy lại coi mầy còn phá nữa hết”. Gió chun vào thổi phồng quần lên. Hai ống quần bọc no nứt gió, bay nằm ngang trên không trung như hai khúc dồi. Nó vừa muốn túm lưng quần lại đề gói gió trong ấy, thì chợt nhận ra rằng ở đâu cũng có gió hết, gió chạy trên người nó để trôi ra phía sau, gió thổi cát bay, gió lay tàu chuối.
12 Tháng Hai 2012(Xem: 26664)
Nghe mà thấm thía hai tiếng Lạy Chúa của cái bà bắc bán xi rô đá nhận bên trường thầy Chín ngày nào. Mà cũng đâu biết đựơc chuyện đời ngày sau sẽ ra sao phải không? Không chừng nếu có một giáo phái nào đó tu như tui thì thế giới sẽ an bình phè phởn hơn nhiều.
12 Tháng Hai 2012(Xem: 26319)
Ai người tình nghĩa đồng hương xin làm ơn làm phước mà giúp tui kiếm dùm cho nó một con bé chủ tiệm vàng chứ không thì cái cỡ làm biếng bầy hầy như thế này thì chắc là tui phải nuôi nó suốt cả một đời. Mà tui thì còn phải đi tìm nhỏ Mai ngày xưa năm cũ. O La La! Biết đâu nhỏ Mai giờ là bà chủ tiệm vàng có cô con gái đẹp không chừng. Có vậy mà nãy giờ không nghĩ ra.
05 Tháng Hai 2012(Xem: 20138)
Buổi lễ tiển biệt được kết thúc trong bầu không khí trang nghiêm, nhưng ấm áp tình cảm gia đình đã để lại cho tang gia và đồng hương đến tham dự với những cảm xúc khó quên. Hương linh Bác sáu Lê văn Nhơn còn phảng phất đâu đây chắc hẵn sẽ mỉm cười…
02 Tháng Hai 2012(Xem: 19239)
đã gói ghé tấm lòng của Ban Biên Tập ( Với đoạn văn “ Những kỷ niệm thời thơ ấu” Kính mong bác sáu luôn mạnh và hình ảnh hai anh Nghĩa, Kỉnh vẫn còn kề cận bên bác sáu). Và hôm nay bác sáu đã ra đi, thân xác sẽ trở về với cát bụi, nhưng hương linh những người con bỏ ra đi trước, cũng sẽ trở về đoàn tụ với bác sáu nơi cõi vĩnh hằng…
26 Tháng Giêng 2012(Xem: 19531)
Tôi thắp hương trên bàn thờ Phật. Cung kính niệm Đức Dược Sư Quang Như Lai. Xin cho bình an và cứu độ muôn loài. Tôi cầu nguyện cho Cữu huyền thất tổ , cha mẹ hai bên. Xin gia hộ cho chồng tôi sức khoẻ tốt hơn, cho các con, các cháu tôi khoẻ mạnh, vui vẻ, biết yêu thương và biết chịu đựng mọi khó khăn, trắc trở của đời sống.
26 Tháng Giêng 2012(Xem: 19054)
Chuyện bình thường trong xã hội này không dưng trở thành nỗi ngạc nhiên trong một thể chế khác. Hình như có những chiếc lá vàng may mắn đã bay lượn trong hoan ca trước khi về với đất...
25 Tháng Giêng 2012(Xem: 19324)
“Tôi không thể ngồi yên Khi nước Việt Nam đang ngã nghiêng Dân tộc tôi sắp phải đắm chìm Một nghìn năm hay triền miên tăm tối
24 Tháng Giêng 2012(Xem: 22607)
Thưa các anh, các anh đã gục ngã với tình yêu quê hương, vì hai chữ tự do cho tha nhân, chúng tôi những người sống sót trong cuộc chiến, không bao giờ quên các anh, mong được về thăm lại những nơi mà chúng ta đã cống hiến tuổi thanh xuân cho tổ quốc.
24 Tháng Giêng 2012(Xem: 19099)
Đã bao mùa Xuân trôi qua ...có nhiều biến chuyển trong cuộc đời...Ba và thầy Rao đã yên lành nơi cõi vĩnh hằng. Tôi vẫn không quên những lần thầy đến nhà tôi, Ba và thầy đứng cạnh hồ cá trước sân nhà. Cả hai nói về chuyện thời sự và về việc học của tôi. Thầy luôn luôn quan tâm ..
18 Tháng Giêng 2012(Xem: 25980)
Đau quá nên đâu biết đã chín giờ tối, có lệnh lên tàu hỏa. Tay kéo lê chiếc sac marin, bước thấp, bước cao lê lết lên tàu. Điều kỳ lạ là mới vừa ngồi xuống, thở phào, chợt nghe cơn đau dịu xuống, rồi vong bặt
16 Tháng Giêng 2012(Xem: 26452)
Hồi đó, tôi chưa đọc Kinh Phật nên không lý giải được hiện tượng kể trên. Về sau, trong những năm cày cuốc trên Khu Kinh Tế Mới Bảo Lộc, tôi lần mò đọc Kinh Luận mới vỡ lẽ. Nếu hồi đó tôi hiểu được lẽ "Tùy Thuận Duyên Giác",
16 Tháng Giêng 2012(Xem: 18591)
Anh đó, Nuôi dưỡng bằng đất bồi Cửu Long, Tim đỏ thắm như bã trầu của mẹ quê, sinh con trai lớn lên làm cách mạng, ôi cách mạng Thế Giới Thứ Ba nổi trôi hơn thân phận con người.
10 Tháng Giêng 2012(Xem: 25791)
Ngựa hoang muốn về tắm sông, nhẫn nhục. Dòng song mơ màng chết trong thơm ngọt! Trong cuộc sống có lúc cảm thấy đau khổ tột cùng, rồi hắn đắc ý với câu nói của vua Lia trong tác phẩm của văn hào Shakespear :- "khi con người ta đau khổ đến cùng cực là lúc ta sung sướng nhất !
08 Tháng Giêng 2012(Xem: 19293)
Những điều em nghĩ về anh, tưởng tượng về anh thuở đó đã tạo trong em hình ảnh một người khổng lồ, là anh. Và em đã yêu anh qua hình ảnh người khổng lồ đó. Nhưng anh nào có biết gì đâu.
02 Tháng Giêng 2012(Xem: 18688)
Bài toán cuộc đời chưa và có lẽ sẽ chẳng bao giờ tìm được ẩn số hài lòng người giải nhưng cứ mỗi một năm mới đến lại đem theo hy vọng cho một dấu nhân của chia xẻ và thương yêu, một dấu trừ cho bạo lực và chiến tranh. Được như vậy thì có lẽ mùa Xuân sẽ vẫn ở quanh năm trên quyển sổ cuộc đời.
30 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 19692)
gã sẽ về thăm lại chốn tù đày thuở nọ. Để có dịp ngắm nhìn Bến Ngọc dưới trăng thanh, lấp lánh khoe ánh ngọc. Để buổi chiều tà trên đỉnh Dốc Phục Linh, ngồi lặng ngắm bầy chim sãi cánh tìm về tổ ấm. Để đắm mình trong Dòng A Mai trong vắt, rồi nửa đêm thao thức, văng vẳng bên tai xào xạt, sóng bổ ghềnh.
27 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 19449)
Ngày xưa, ông Carnot khi thành nhân còn có dịp về ngôi trường làng thăm thầy cũ. Những Carnot Việt Nam trong những ngày tàn của thế kỷ có một quê hương mà không được về. Đến khi về được chắc không còn thầy để thăm.
25 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 18476)
Tôi đã chạy như bay đến bệnh viện khi được thằng con trai báo tin là vợ tôi đã được cứu sống. Tôi lao vào căn phòng có vợ tôi đang nằm im lìm, thoi thóp. Tôi kịp giữ nàng lại lúc nàng cố gắng lấy sức tàn để đập đầu vào tường tự sát một lần nữa. Tôi ôm nàng và khóc như chưa bao giờ được khóc. Tôi van xin nàng hãy vì tôi, vì các con mà sống.
21 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 19198)
Con người nào có hơn gì cây cỏ! Thiên nhiên làm chủ vạn vật; con người chỉ là sinh vật nhỏ bé trong vũ trụ bao la. Dù ở nơi nào trên mặt đất, con người vẫn chỉ là sinh vật nằm trong bàn tay của Thượng Đế.
21 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 19253)
Rồi ngày tháng dần trôi, cháu ngoại em nay đã vào lớp 9. Cháu ngoại tôi cũng chuẩn bị vào lớp1. Gặp tôi, em nở nụ cười và gật đầu chào. Tôi đáp lại. Gặp nhau chẳng biết nói năng gì?. Tôi định chép lại những bài thơ để tặng em. Chắc ngày xưa em có đọc, nhưng bây giờ không còn nhớ. Nếu em có địa chỉ email thì hay quá.
14 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 20055)
Tôi có nghe ai đó nói: Với thế giới này, bạn chỉ là một người. Nhưng với một người, bạn là cả thế giới của họ. Cảm ơn bác, cảm ơn người đàn bà nhặt lon trên đất Mỹ. Chính bác đã mở ra trong tâm hồn cháu cả một thế giới lắng đọng bao la: Một thế giới kiến tạo từ đôi tay gầy guộc của người mẹ tần tảo.
09 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 21335)
Những cánh cửa hé mở... Những dòng đời trôi theo một nhịp thiết tha, trôi theo mệnh nước, trôi theo phận người, trôi nổi bềnh bồng, chan chứa đam mê, đau khổ, và khát vọng trong ánh sáng chói lòa của tình yêu. Tình yêu, từ thuở hồng hoang, chỉ đơn thuần có hai màu trắng và đen.
06 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 18651)
Không biết đối với mọi người mùa Giáng Sinh ra sao, riêng tôi, mùa Giáng Sinh ở tuổi nào vẫn đem lại màu xanh tươi vui mà tâm hồn tôi luôn mở ra để đón nhận.
04 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 24665)
Tự dưng ông Dũng thở dài đứng bật dậy đặt nhẹ tờ giấy bạc lên bàn rồi bỏ đi ra bên đường, nheo mắt nhìn lên bầu trời xanh thẩm mà ngở như là mình đang trên chiếc xe đạp thả dốc Kỷ Niệm gió phanh ngực áo về hướng Biên Hùng mắt đỏ hoe. Hẳn là đã vướng bụi đời lang thang .
02 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 25646)
Mau quá tụi bây há! Thoáng cái mà đã gần nữa thế kỷ rồi. Cũng như thằng Luận nói, tao chẳng bao giờ nghĩ là tao sẽ sống đến ngày nay mà gặp lại được tuị bây. Vậy thì ơn trời đất ban cho, từ nay về sau sống thêm ngày nào thì ráng mà vui thêm với đời ngày đó vậy, coi như tụi mình đã lấy lại vốn và đang gom lời.
01 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 20086)
Theo quan niệm của người Á Đông mình, được gọi là THỌ khi đã bước qua tuổi 60, lục tuần, tức là đã đi hết một vòng tuần hoàn của thiên can, địa chi.Đối với tôi, đó cũng là điều hảnh diện và sung sướng khi cảm nhận mình hiện diện trên cỏi đời nầy được 60 năm,
29 Tháng Mười Một 2011(Xem: 16722)
Khi đề cập đến phụ nữ Việt Nam, ai ai cũng đều thừa nhận rằng từ ngàn xưa cho đến nay họ là những người đàn bà dịu hiền, thùy mị, đoan trang, đảm đang, trung trinh tiết hạnh, giàu lòng hy sinh
28 Tháng Mười Một 2011(Xem: 17821)
Chẳng ai biết tên thật của ông ta là gì, mãi cho đến lúc câu chuyện khủng khiếp đó xảy ra. Thường ngày Người Chăn Vịt Trại Châu Bình chúng tôi vẫn gọi ông là ông Năm Cò. Tôi cũng không hiểu tại sao ông lại có cái tên này.
25 Tháng Mười Một 2011(Xem: 18209)
Chán đời phiêu bạt bị gậy trờ lại mái nhà xưa đuổi gà cho vợ, đến ngày lể Tạ Ơn nhìn mặt mình trong kiếng sao thấy gần giống con gà tây ngoài vườn. Chắc là tại ăn nhiều gà quá hay chăng?
24 Tháng Mười Một 2011(Xem: 19623)
Ấy chết! Thứ Năm tuần này là Lễ Tạ Ơn, sao Lão Móc lại đi nói chuyện bá láp làm phiền nhiều người như vậy nhỉ? Nhân Lễ Tạ Ơn, Liên Đoàn Gà Tây toàn quốc có tặng Tổng Thống Hoa Kỳ một con gà tây, và con gà tây này sẽ được Tổng Thống tha mạng,
21 Tháng Mười Một 2011(Xem: 19588)
Đã 20 năm rồi, những kỷ niệm về muà Tạ Ơn đầu tiên trên nước Mỹ vẫn còn nằm nguyên trong trí nhớ cuả tôi. Tôi yêu đất nước này biết bao, một lần trở về chốn cũ
16 Tháng Mười Một 2011(Xem: 21133)
Một số cặp vợ chồng tân tiến muốn gọi nhưng vẫn còn ngượng ngùng với hàng xóm, chỉ thầm kín tỏ tình với nhau trong buồng, thỏ thẻ chỉ đủ hai người nghe với nhau
02 Tháng Mười Một 2011(Xem: 22695)
Tôi biết… tôi biết… Hễ nói tới chiếc áo dài trắng là mọi người nghĩ ngay đến sự ngây thơ hồn nhiên, vẻ dịu dàng xinh xắn của các cô nữ sinh. Nhưng nào có ai biết đưọc nổi khổ của bọn con gái tụi tô
01 Tháng Mười Một 2011(Xem: 18084)
Hò… ơ… Rồng chầu ngoài Huế, Ngựa tế Đồng Nai. Nước sông trong sao cứ chảy hoài, Thương người xa xứ lạc loài đến đây.
31 Tháng Mười 2011(Xem: 18797)
con còn đi khắp thế gian khóc cười. Cuộc đời là vậy đó. Con còn nặng nợ với đời và sẽ tiếp bước ba, theo sau . Câu trả lời chỉ còn là thời gian. Vĩnh biệt ba kính yêu của con.
28 Tháng Mười 2011(Xem: 19336)
Xin được phép mượn lời của nhà thơ Phan Văn Trị trong bài họa với Tôn Thọ Trường ngày xưa “Ai về nhắn với Chu Công Cẩn, Thà mất lòng anh, đặng bụng chồng” để trả lời với những ai vẫn còn trách cứ,
23 Tháng Mười 2011(Xem: 19524)
Tiếng khóc nức nở làm tôi tỉnh lại, tôi thấy thằng Đầu Bự đang ôm xác thằng kia khóc lóc. Tôi la lên Đầu Bự… Đầu Bự…đừng…đừng… Hắn quay lại nhìn tôi, rồi từ từ leo lên bàn. Tôi thấy hình như hai đứa nhập lại thành một và từ từ ngồi dậy
21 Tháng Mười 2011(Xem: 18050)
Mùa Thu là mùa của lá rụng, ai cũng ngẩn ngơ nhìn cảnh tàn tạ của những chiếc lá khô đã sống hết một đời của lá, rơi xuống và nằm thinh lặng trên mặt cỏ
17 Tháng Mười 2011(Xem: 19242)
Hòa trong nỗi sầu vào thu, suối mơ cũng buồn vì suối lưu luyến tình nhân thế. Nỗi buồn tưởng không thể nào trong sáng hơn thế, tình yêu tưởng không thể nào trong sáng hơn thế, chẳng bợn chút dục vọng, sầu thương, mà dường ru con tim nguôi ngoa lắng dịu.
13 Tháng Mười 2011(Xem: 20975)
Em không nghe, không biết gì hết… Nhưng còn tôi, tôi nghe và hiểu được sự rung động của tim mình và cũng biết rằng mình đang yêu nhưng không nói ra được vì …vì nhút nhát, rụt rè… của cái tuổi học trò mới lớn đang biết yêu. Cũng có thể em đã nghe nhưng vẫn giả đò làm ngơ, như con nai vàng ngơ ngác
03 Tháng Mười 2011(Xem: 20103)
Để rôi năm tháng dần trôi theo cõi đời nghiệt ngã, ông cởi áo đi tù, gậm nhấm nỗi hờn vong quốc, bà vẩn ở lại nhà đêm đêm cố tìm lấy hơi ấm của chồng qua manh áo cũ.