6:12 SA
Thứ Sáu
29
Tháng Ba
2024

NGHE LẠI " HỒ TRƯÒNG" TRÊN ĐẤT MỸ - Phùng Annie Kim

09 Tháng Sáu 20159:16 SA(Xem: 10511)
“Hồ Trường” là bài thơ nổi tiếng từ đầu thế kỷ 20 của danh sĩ Quảng Nam Nguyễn Bá Trác (1881-1945), viết trên đất Tầu trong thời ông hường ứng phong trào Đông Du. Sau khi về nước, từ 1917, Nguyễn Bá Trác là chủ bút phần Hán văn của tạp chí Nam Phong rồi trở thành quan chức nhà Nguyễn. Năm 1945, ông bị Việt Minh xử bắn tại Qui Nhơn. Thơ “Hồ Trường” của ông mới đây vừa được diễn ngâm tại Quận Cam. Câu chuyện Hồ Trường xưa và nay được ôn lại bởi Phùng Annie Kim, một tác giả gốc nhà giáo dạy văn, từng nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014...

Từ một cơ duyên, được nhận ra tác giả từng là Giáo Sư tại trường trung học Công Thanh Biên Hòa


* * *

Cali vào cuối thu. Mưa lất phất, bầu trời âm u, xám xịt. Cali đang hạn hán. Những cơn mưa kéo dài mấy ngày vẫn chưa đủ nước tưới tẩm đất đai cho tiểu bang có khí hậu vùng biển này.Thời tiết lành lạnh, ướt át thích hợp với một ly trà hay cà phê nóng, một quyển sách hay đang đọc dở dang, một bản nhạc êm dịu như "Tiếng chuông chiều thu" và nằm quấn mình trong chăn êm nệm ấm.

Tình cờ xem chương trình quảng cáo Tình ca- Dân ca Việt Nam của cặp nghệ sĩ Nga Mi-Trần Lãng Minh trong đó có tiết mục ngâm thơ bài "Hồ Trường", bài thơ tôi rất thích hồi còn trẻ khiến tôi vùng dậy, thay quần áo ấm, khoác vội chiếc khăn quàng đến vũ trường Bleu.

Phòng trà nhỏ, đầy người. Vé đã bán hết. Tôi nhắn gặp cô em văn nghệ MX. Cô dẫn tôi vào ngồi tạm ghế "súp" ở quầy rượu. Đã lâu lắm rồi từ ngày qua Mỹ, tôi chưa có dịp nghe lại bài thơ này. Chương trình văn nghệ thật là phong phú và đặc sắc, đủ các tiết mục đơn ca, song ca các bản nhạc tiền chiến. Đặc biệt nhất là các tiết mục hát, ngâm những làn điệu truyền thống dân tộc ba miền như Hát Quan Họ, Ca Trù, Chầu Văn, Hát Chèo, Hát Xẩm, Hát Cải Lương, Hát Bài Chòi...

"Hồ Trường" là một trong mười tám tiết mục do Nga Mi và Trần Lãng Minh diễn ngâm bằng thơ.

Hồ Trường, bài thơ dịch từ chữ Hán của tác giả Nguyễn Bá Trác xuất hiện đầu tiên trên tạp chí Nam Phong số bốn mươi mốt, đầu năm một ngàn chín trăm hai mươi. Hồ Trường được tác giả mô tả là lời hát của Nam Phương ca khúc, dựa trong thiên ký sự "Hạn Mạn du ký" viết bằng Hán tự kể lại chuyến đông du kéo dài năm năm của ông.

Là người thanh niên trẻ sang Nhật du học, ông đã từng theo phong trào Đông Du và Duy Tân của hai cụ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh. Chiến tranh giữa Nhật Trung, ông bị trục xuất sang Tàu, sống đời lưu vong của người thanh niên xa xứ ôm nhiều hoài bão, tràn đầy nhiệt huyết hướng về quê hương. Trong hoàn cảnh thất cơ lỡ vận, ông mượn bầu rượu (hồ), chung rượu (trường) để bày tỏ nỗi niềm tâm sự. Bài thơ được viết bằng thể văn biền ngẫu, các câu song song đối nhau. Sau này, bản Việt ngữ do chính tác giả dịch, được nhiều người diễn ngâm.

Trên sân khấu nhỏ, tiếng trống thúc giục từng hồi, tiếng đàn tranh bật lên réo rắt, tiếng sáo vi vu trầm bổng, hai khuôn mặt sáng sân khấu, diễn viên Trần Lãng Minh và Nga Mi cất cao giọng ngâm thật trầm hùng bài thơ "Hồ Trường":

"Đại trượng phu/ không hay xẻ gan bẻ cột/ phù cương thường
Hà tất tiêu dao bốn bể/
luân lạc tha hương
Trời Nam/ nghìn dặm thẳm
Non nước/ một màu sương
Chí chưa thành/ danh chưa đạt
Trai trẻ bao lâu /mà đầu bạc
Trăm năm thân thế/
bóng tà dương.
Vỗ gươm mà hát/
nghiêng bầu mà hỏi
Trời đất mang mang
Ai là tri kỷ
Lại đây cùng ta/ cạn một hồ trường..."

Bậc "trượng phu" là những người có chí lớn, bản lãnh và tài ba hơn người. Họ là những người dám "sẻ gan", "bẻ cột" lấy ý từ tích Chu Văn xin vua Hán Thành Đế giết Ân Xương Hầu Trương Vũ. Bị bắt lôi đi, Chu Văn bám tay vào cột. Cột gãy. Sau này Chu Văn được tha tội, vua sai sửa cung điện nhưng vẫn giữ cột bị gãy để biểu dương lời nói ngay thẳng, chí khí hào hùng không sợ chết của bầy tôi trung nghĩa, dám can gián vua chống lại bọn gian thần.

Theo quan điểm Nho giáo thời phong kiến, họ là những "kẻ sĩ" ảnh hưởng nền Nho học, lấy "tam cương, ngũ thường" làm tiêu chuẩn đạo đức. Tam cương là ba giềng mối trong đó có đạo "quân thần", bầy tôi phải trung với vua; đạo "phụ tử", cha phải có bổn phận nuôi con, con phải có hiếu với cha mẹ; đạo "phu thê", vợ chồng phải đối xử tình nghĩa với nhau. "Ngũ thường" là năm điều "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín" trong quan hệ cư xử giữa con người trong xã hội.

Cách đây gần một thế kỷ, tác giả bài thơ và những thanh niên trẻ Việt Nam là những nhà nho có chí lớn, mang tư tưởng cấp tiến và bầu nhiệt huyết tham gia phong trào Đông Du và Duy Tân của hai nhà cách mạng lão thành. Họ tìm con đường xuất dương du học. Họ mang hoài bão thu thập kiến thức văn minh mới lạ ở xứ người sau này trở về phục vụ cho đất nước, dân tộc. Họ "luân lạc tha phương". Có những lúc họ hướng về cố hương phía Nam xa xôi, nào thấy đâu, chỉ là "một màu sương". Nhìn lại bản thân "chí chưa thành, danh chưa đạt", tóc xanh nay đã bạc, mong tìm người tri kỷ để chia sẻ nỗi sầu.

Tay cầm bầu rượu, tay vỗ thanh gươm, chếnh choáng trong hơi men, kẻ trượng phu giọng chất đầy hào khí:

... Hồ trường. Hồ trường
Ta biết rót về đâu
Rót về Đông phương/ nước biển Đông chảy xiết/ sinh cuồng loạn
Rót về Tây phương/ mưa phương Tây từng trận /chứa chan
Rót về Bắc phương/ ngọn Bắc phong vi vút/ đá chảy cát vương
Rót về Nam phương/ trời Nam mù mịt
Có người quá chén
như điên như cuồng.

Bậc trượng phu say mà tỉnh, tỉnh mà say. Chàng rót nỗi sầu trong men rượu. Đã có lúc chàng "quá chén như điên như cuồng". Chàng gửi hết giấc mộng lớn của mình trong hai tiếng "Hồ trường". "Hồ trường". Chàng hướng về bốn phương, nhìn rượu chảy mà ngỡ nước biển Đông chảy xiết, mưa phương Tây chứa chan, gió từ phương Bắc làm đá chảy, cát vương, trời phương Nam mù mịt.

Thời xưa, vị hoàng tử sinh ra trong cung vua hay người con trai sinh ra ngoài đời được viên quan bộ Lễ hoặc cha mẹ lấy cây cung (hồ) bằng gỗ dâu (tang), sáu mũi tên (thỉ) bằng cỏ (bồng) bắn lên sáu phương đông tây, nam, bắc, thượng, hạ, tượng trưng cho chí làm trai tung hoành ngang dọc, xây dựng sự nghiệp lớn. Họ treo cây cung bên trái, cây tên bên phải trước cửa nhà ngụ ý báo rằng gia đình sinh được con trai. Người con trai sau này sẽ thực hiện ý chí "tang bồng hồ thỉ" của đấng nam nhi.

Nào ai tỉnh/ nào ai say
Lòng ta/ ta biết
Chí ta/ ta hay
Nam nhi sự nghiệp như hồ thỉ
Hà tất cùng sầu đối cỏ cây.

Bài thơ khép lại bằng nỗi sầu cô đơn khi tác giả đối diện với chính mình. Chỉ có ta mới hiểu chí khí của ta "Nam nhi sự nghiệp như hồ thỉ". Chỉ có ta mới hiểu được lòng ta "Trời Nam ngàn dặm thẳm. Non nước một màu sương".

*

Bốn mươi năm, nghe lại bài thơ đầy khí phách của kẻ sĩ thời phong kiến sống cách xa tôi gần một thế kỷ, tâm trí nghĩ ngợi, lòng buồn mênh mang.

"Ôn cố tri tân". Người xưa, "sinh bất phùng thời" hoặc bất đắc chí, dùng rượu giải nỗi sầu vong quốc. Tuy có chếnh choáng, ngả nghiêng mà vẫn thấy khí phách hào sảng, khác hẳn cảnh bia rượu thường thấy mô tả trong nước Việt thời nay.

Theo thống kê được phổ biến trên báo chí, Việt Nam ngày nay là nước có số tiêu thụ bia rượu lớn nhất tại Đông Á, tính theo đầu người. Với cán bộ công nhân viên xứ xã hội chủ nghĩa này, bia rượu đã thành đầu câu chuyện để móc ngoặc ăn chia, mua quan bán tước, trộm cắp tài nguyên... Thứ "văn hóa bia rượu" này còn lan cả sang giới trẻ, làm tê liệt mọi hoài bão, lý tưởng. Đủ loại nhức nhối về xã hội như tham nhũng, cướp đất, buôn người, mãi dâm, nô lệ tình dục, xì ke, ma túy... được phủ lấp bằng hơi men.

Hơn một thế hệ đã mai một.

Tiền đồ đất nước đi về đâu?

* * *

Sau gần một thế kỷ nhiều thăng trầm, dâu bể theo vận nước nổi trôi, câu thơ trong bài Hồ Trường ngẫm lại như một lời tiên tri về thời sự:

"...Rót về Đông phương, nước biển Đông chảy xiết sinh cuồng loạn..."

Ngày mười chín tháng một năm một chín bảy bốn, "Biển Đông dậy sóng". Chiến hạm Nhật Tảo HQ10, sau một trận hải chiến ác liệt chống bọn xâm lược đã chìm vào biển Đông. Chiến công của họ đi vào lịch sử. Bốn mươi năm trôi qua, "nước biển Đông" vẫn "chảy xiết" bởi bọn "cuồng loạn" bắn phá tàu bè, bắt bớ, giết hại ngư dân. Ngoài biển, "những chiếc tàu lạ" đang đào hút mỏ dầu trong vùng khoanh có cái tên "lưỡi bò". Biểu tình bị cấm. Những người biểu tình bị bắt. Còn nỗi nhục nào hơn khi Hoàng Sa, Trường Sa rơi vào tay bọn bá quyền.

Lịch sử ghi lại các cuộc khởi nghĩa của "Hùm thiêng Yên Thế" Hoàng Hoa Thám, phong trào Văn Thân của Phan đình Phùng, hịch Cần Vương của vua Hàm Nghi, anh hùng liệt sĩ Yên Bái Nguyễn Thái Học, Thủ khoa Huân... và còn biết bao nhiêu những trận "mưa phương Tây":

"...Rót về Tây phương, mưa phương Tây từng trận chứa chan..."

Đó là các cuộc khởi nghĩa của những nhà chí sĩ, ái quốc, những bậc anh hùng, anh thư Việt nam vùng lên chống ách đô hộ của thực dân Pháp. Niềm tự hào của dân tộc Việt vẫn còn đây. Truyền thống chống ngoại xâm vẫn còn ghi lại trong những trang sử Việt.

"...Rót về Bắc phương, ngọn Bắc phong vi vút đá chảy cát vương..."

Ngược dòng lịch sử, với những cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Bà Triệu...vào những năm bốn mươi, từ thế kỷ thứ mười trở đi, năm chín ba chín, Ngô Quyền đánh quân Nam Hán. "Đại Cồ Việt", cái tên đặt cho đất nước Việt Nam do Đinh Tiên Hoàng, vị hoàng đế đầu tiên mở đầu cho một thời đại độc lập, tự chủ, xây dựng một chế độ quân chủ sau một ngàn năm nô lệ phương Bắc là một trang sử huy hoàng. Tiếp theo đó, những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm phương Bắc vẫn tiếp tục khiến cho bao phen "đá chảy cát vương" qua nhiều triều đại. Nhà Lê với Lê Hoàn đánh Tống. Nhà Lý với Lý Thường Kiệt đánh Tống. Nhà Trần với Trần Hưng Đạo chống Nguyên, Mông. Lê Lợi với mười năm bình định giặc Minh. Nguyễn Huệ đánh tan quân Thanh.

"Ngọn Bắc phong" dù có cao "vi vút", biết bao phen đá chẩy, cát vương mà rồi cố hương vẫn mù mịt, khiến người tráng sĩ tha hương phải nghiêng bầu rượu mà than rằng:

"...Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt..."

Tiếng than lưu vong của người xưa còn nối dài không biết đến bao giờ.

Biến cố ba mươi tháng tư năm bảy lăm là một bước ngoặt lịch sử bi đát. Ai bỏ nước ra đi mà không nhớ, nghĩ về cố hương?

Sau bốn mươi năm định cư tại các nước trên thế giới, hàng triệu người Việt di tản, vượt biên và định cư xa xứ đâu ngờ rằng đã gần một thế kỷ mà nơi quê xưa, cơn mù mịt vẫn chưa chịu tan.

Những ngày cuối của năm con ngựa sắp trôi qua. Một năm mới sắp đến. Bốn mươi năm nghe lại bài thơ "Hồ Trường" vẫn là âm vang bi tráng, hào sảng ngày xưa nhưng sao tâm cảnh của người nghe thoáng chút ngậm ngùi.

Phùng Annie Kim
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
10 Tháng Chín 2011(Xem: 20189)
Buồn bả nghẹn ngào nhưng tui không khóc, chỉ từ chối không ăn cơm thịt gà hôm đó. Mặc cho chị Gấm chọc ghẹo tới cở nào tui chỉ ăn cơm với xì dầu. Nhìn cái đùi gà nằm trên dĩa với những lằn dao chặt ngọt qua lớp da vàng óng đầy mở tui thù chị Gấm chi lạ.
03 Tháng Chín 2011(Xem: 21241)
Ra đường nhìn gái còn khen là đầu óc còn sáng suốt.(khi nào nhìn đàn ông thành đàn bà thì tôi mới run). Sự sống trên trái đất này sẽ không tồn tại nếu không có những người như chồng tôi và bạn bè của anh.
30 Tháng Tám 2011(Xem: 20207)
Gió mưa sấm sét đùng đùng, Dãi thây trăm họ nên công một người. Khi thất thế tên rơi đạn lạc, Bãi sa trường thịt nát máu rơi,Trời sẽ tối, tiếc thương rồi sẽ hết. Mong các anh yên nghỉ, siêu thoát và xin hãy tha lỗi cho sự chậm trễ của chúng tôi, những người còn sống!
26 Tháng Tám 2011(Xem: 20103)
Má tui tuổi con chó, năm nay chắc cỡ 77 hay 78 gì đó, tui hỏng nhớ rõ. Người ta thường hay bảo người già hay thay đổi tính tình nhưng má tui thì có khác chi đâu? Bả vẫn thế! Như xưa. Vẫn hà tiện và tính toán chi li từ đồng bạc nhỏ
19 Tháng Tám 2011(Xem: 20789)
- Cu Lửa biết không ! Thỉnh thoảng tao nhớ đến mày ! ......Lúc nào vậy chị? Tui xin báo cho chị một tin mừng là lời nguyền ngày đó của chị rất là linh thiêng, tui đã...đã Xèo!
11 Tháng Tám 2011(Xem: 19939)
Phải về hỏi thằng Định thôi, hình như bây giờ nó đang nối nghiệp ông già ngồi may cái gì ở đó với con vợ to như cái mền. Chắc là của ai đặt rồi không đến lấy nên nó phải lấy? Định ơi, sao mày không kêu ông thầy cúng?
08 Tháng Tám 2011(Xem: 20011)
Em ra nấu cơm đi trong lúc anh tắm rửa thay quần áo. Hôm qua món cà pháo om với bì lợn, với đậu phụ rắc tía tô, anh thích lắm, ăn được mấy bát cơm. Hôm nay em làm món cá rán và món nộm rau muống trộn với thịt ba chỉ, tôm, khế, rau răm và vừng em nhé. Việc gì đi ăn nhà hàng cho tốn tiền và làm sao có món Bắc Kỳ ngon như của em cơ chứ
06 Tháng Tám 2011(Xem: 20424)
Thì ra Jack cứ ngỡ Wendy là một cô gái câm thế mà anh vẫn sinh lòng quyến luyến mà còn muốn tiếp tục đi đến hôn nhân. Wendy cũng tự hào có quyết định sáng suốt vì đã chọn được người tình trong mộng tuyệt vời nhất thế gian.
05 Tháng Tám 2011(Xem: 20036)
Khổ cho các nhà thơ, các chàng nhạc sĩ dù có nhoi nhói thất tình, cũng chẳng còn tìm đâu ra tà áo cưới để than để thở, vả lại các cô dâu bây giờ biết rõ họ đi đến đâu và sẽ làm gì, chẳng ai cần bánh quế - bánh cốm – bánh phu thê (xu xê)...
31 Tháng Bảy 2011(Xem: 21512)
Biết nói chi đây, tui chỉ là thằng nhóc con ngày đó, mà bây giờ thì Mỹ, Cộng hài hoà xúng xính trong cái áo dài cổ truyền phong kiến có in chữ THỌ cùng nhau đi lễ chùa Hương hôi rình, còn thằng tui thì âm thầm nhang đèn cúng vái cho nhỏ Mai với anh Ba Khả trong lòng. ..
28 Tháng Bảy 2011(Xem: 20999)
Đó cũng là lần cuối cùng tui gặp con Mai. Nghe nói ông Ba Râu bị bắt đánh xe bò vô rừng chở cái gì cho ai đó một tối rồi không bao giờ trở lại. Mai ơi ! cho tao xin lỗi mày, bây giờ mày ở nơi đâu? Mấy con dế mày cho đã chết từ lâu nhưng hình như tao vẫn còn nghe tiếng gáy đâu đây.
27 Tháng Bảy 2011(Xem: 21766)
Ngày mai,28/7/2011,ngày tưởng niệm lần thứ 38 năm đơn vị tôi bị phục đánh.Xin vọng tưởng đến anh linh cố thiếu tá Thạch ngọc Nhường,đơn vị trưởng của tôi,và các đồng đội đã anh dũng hy sinh.Nếu cùng chung số phận,ngày nầy 28/7/2011,là lần giỗ thứ 38 của tôi rồi. Kỷ niệm đau buồn mãi mãi không bao giờ quên.Xin thân chuyển đến quý vị bài bút ký nầy.
26 Tháng Bảy 2011(Xem: 20768)
Tui đã có về thăm lại chốn xưa trường cũ đó một lần, ông thầy Chín đã mất từ lâu, cái trường cũ của tui giờ là một căn phố cao như cái hộp quẹt dựng đứng trông quê không chịu nổi, nhưng cái sân gạch tàu đỏ vẫn còn đó.
20 Tháng Bảy 2011(Xem: 21738)
Chẳng còn dấu vết gì của chiến tranh để lại.Còn chăng là những địa danh:Bình long,An lộc,Tân khai,Suối Tàu ô,Xa cát,Xa cam,Xa trạch,Đồi Gió...trong lòng mỗi con người chúng ta,còn sống sót sau chiến tranh.Xin chiến tranh hãy ngủ yên trong tâm tư con cháu thế hệ mai sau của chúng ta.
19 Tháng Bảy 2011(Xem: 20940)
Anh thong thả uống hụm sinh tố và dõi mắt sang hàng cơm tấm bên cạnh. Đang tầm sáng, giờ cao điểm đông khách, anh chẳng thấy Ngọc Diệp đâu, chỉ thấy một bà to mập đang ngồi giữa nồi cơm to tướng không kém gì bà ta, và một cái bàn thấp trên bày la liệt những món ăn, những hũ đồ chua và hũ nước mắm, mấy ống đựng thìa, đựng nỉa
18 Tháng Bảy 2011(Xem: 20272)
Sống chung với một ông bố chồng già yếu, bướng bỉnh là chuyện không dễ. Ông hay than phiền, hỏi những câu không đúng lúc và từ chối các món ăn cần thiết. Ông hãnh diện về thời trai trẻ, cứ kể đi kể lại các câu chuyện của thời vàng son. Hồi đó, là chỉ huy trong quân đội...ông luôn đặt lý trí lên trên tình cảm
19 Tháng Sáu 2011(Xem: 20906)
“ Đời buồn như chiếc lá, lặng rơi bên hiên nhà. Mưa vô tình ngập lối Cuốn trôi mảnh hồn ta! “
15 Tháng Sáu 2011(Xem: 19929)
Tôi không thích khoe khoang về ông “Bố” của nhà đâu, vì chả lẽ lại “mèo khen mèo dài đuôi”, những điều tầm thường trong cuộc sống gia đình chắc nhà nào cũng giống nhau. Ngày lễ Cha ai cũng nhắc đến công ơn sinh thành dưỡng dục của Bố,
14 Tháng Sáu 2011(Xem: 19071)
Đã bốn mươi lăm năm trôi qua, tiếng gọi thân thương “Bố ơi!” đã vĩnh viễn lìa xa chị em tôi khi tôi vừa qua mười sáu tuổi. Mãi đến bây giờ mỗi lần nhớ về Người lòng tôi vẫn luôn mang tâm trạng bồi hồi thương kính.
01 Tháng Sáu 2011(Xem: 20189)
Ông may mắn nhiều lần thoát chết và cuối cùng đến được bến bờ tự do qua con đường vượt biên bằng đường biển. Ông định cư tại Hoa Kỳ cùng với gia đình. Hồi ký “ Cuộc đời đổi thay” được tác giả ghi lại hành trình của một đời người thăng trầm suốt hơn 50 năm theo vận nước .
27 Tháng Năm 2011(Xem: 19468)
Tôi bốc ra những sợi tóc bạc ngày xưa của má để lên bàn tay. Tôi đưa bàn tay với nhúm tóc lên mủi. Tôi nhấm nghiền đôi mắt. Mùi hương thoảng nhẹ mơ hồ trong ảo giác. Tôi khóc òa lên như một đứa trẻ trong căn nhà cũ quạnh vắng buồn hiu!
26 Tháng Năm 2011(Xem: 20377)
Ngày hôm nay viết những dòng này tôi muốn nói với các bạn rằng trong bao chia ly cuộc đời có gì hạnh phúc hơn những hạnh ngộ bằng hữu. Làm bạn với anh Tô hòa Dương ngày nọ là một trong những hạnh ngộ bằng hữu ấy
18 Tháng Năm 2011(Xem: 21531)
Tôi ở đội kỹ luật một năm rưởi được đưa ra đội nông nghiệp và được thả về nhà, tôi dùng chữ thả rất đúng nghĩa của nó, chúng ta không thể ngộ nhận chữ thả và chữ tha được vì chúng ta có tội với ai đâu mà được tha
10 Tháng Năm 2011(Xem: 20285)
em là một người mẹ chồng tuyệt vời chưa đủ, mà là một phụ nữ miền Nam tuyệt với nữa đấy, vì lúc nào cũng nhân hậu, hào phóng, dễ tính và dễ thương vô cùng.
04 Tháng Năm 2011(Xem: 19723)
Cám ơn mẹ đã cho ba con, đã cho con một ngọn lửa tình yêu không bao giờ tắt, một dòng đại dương tình yêu không bao giờ khô cằn, một bầu trời tình yêu luôn chói lòa rực sáng, ngát hương ...
04 Tháng Năm 2011(Xem: 19684)
Tôi sinh ra ở miền Bắc VN sống và trưởng thành tại Sài Gòn. 1970 gia đình rời về Biên Hòa là lúc tôi lên đường nhập ngũ làm tròn bổn phận người trai thời binh lửa.sau 1975 khi đất nước rơi vào tay CS tất cả những hoài bão tương lai của tôi biến theo thời gian
27 Tháng Tư 2011(Xem: 20415)
Em Sài Gòn diễm ảo của anh xưa Mình mất nhau mười hai mùa nắng mưa Anh cứ ngỡ đã mười hai thế kỷ…
26 Tháng Tư 2011(Xem: 19642)
Độ 7 giờ, tiếng xích của chiếc PT76 nghiến mặt đường từ từ tiến lên từ hướng chợ, khi đến gần cổng của BCH/CSQG/Quận Long-Thành dừng lại vì lựu đạn và M79 bắn xối xả của anh em phòng thủ, tôi đang ở trong bunker, nằm ngay góc Chi-khu và văn phòng ban ANQĐ/Quận, xuyên qua lỗ châu mai nhìn thấy những bóng đen lốp ngốp phía trên mui xe
24 Tháng Tư 2011(Xem: 19905)
Chất xám đã chảy rakhỏi nước rất nhiều từ cuộc di tản vĩ đại của tháng 4 năm 75, chất xám bị thui chột trong các "trại cải tạo", rồi tiếp tục rò rỉ theo những chiếc ghe vượt biên nhỏ nhoi, đầy tội nghiệp. Chưa dừng ở đó, chất xám Việt Nam tiếp tục thất thoát cho tới bây giờ,
16 Tháng Tư 2011(Xem: 20981)
Vâng, tôi sẽ im lặng cho đến chết, để xa chàng mà vẫn mang theo đời mình trọn vẹn hình ảnh người yêu đầu đời năm xưa, để con tôi vẫn giữ nguyên trong lòng sự ngưỡng mộ suốt đời nó, khi luôn luôn nghĩ rằng có một người cha đã anh dũng hy sinh vì Tổ Quốc.
03 Tháng Tư 2011(Xem: 20951)
Không biết mọi người ra sao, riêng tôi càng lớn tuổi càng thích lục lọi tìm những tấm ảnh cũ, mà mỗi tấm ảnh dù đẹp hay xấu, đã ố vàng với thời gian đều chất chứa ít nhiều kỷ niệm và nơi chốn.
03 Tháng Tư 2011(Xem: 21601)
Hôm nay, ngồi đọc và viết bài “Hương Vị Ngày Xưa”, món ăn hai miền của quê Mẹ mà lòng tôi bùi ngùi không tả. Đã mấy chục năm rồi, nơi đất nước phồn hoa này, đầy đủ các món ngon vật lạ.
03 Tháng Tư 2011(Xem: 20501)
Tôi nhớ giọt mồ hôi lấm tấm trên trán Mẹ, lom khom chụm lửa cho nồi bánh, dù Trời đang se lạnh. Tôi thương cái dịu dàng nhẫn nại của chị, ngồi nắn nót từng hũ dưa hành, dưa kiệu ngọt dịu trắng tinh
12 Tháng Ba 2011(Xem: 20925)
Vì vậy, sáng nay khi bà Tâm gọi sang để nhắc Duyên lát trưa qua chở bà đi chợ Việt Nam mua thức ăn, tiện thể xin quyển lịch “Tam Tông Miếu” (loại lịch bóc từng tờ) để bà coi ngày giờ, kiêng cữ cho cả năm, Duyên đã cười vang trong phone và nói với mẹ rằng: ”Má ơi, cái duyên “Tam Hạp”
08 Tháng Ba 2011(Xem: 20687)
Bố mẹ tôi người Bắc, di cư vào Nam lại sống trong khu xóm toàn người Bắc, nên tôi vẫn nguyên vẹn là con gái Bắc cả từ ăn nói đến cách sống ở đời.
03 Tháng Ba 2011(Xem: 19434)
Mùng Hai Tết năm đó, cô Hai Lựa dẫn thằng Cu Tí về quê ăn Tết. Bất ngờ hay tin ông Cả Mẹo vừa mới qua đời. Tin như sét đánh ngang mày, mẹ con cô vội vàng chạy u về nhà ông Cả. Vừa bước chân vào nhà thì nắp quan tài cũng vừa đóng đinh khóa chặt lại
03 Tháng Ba 2011(Xem: 20684)
Tôi sinh ra và lớn lên ở vùng đất mà các nhà địa lý Tàu cho là có long mạch, mà long huyệt nằm ngay tại cái dốc cao vút ngay tại núi Châu Thới, vì vậy nhà triệu phú người Tàu tên Hỏa chôn nơi đây, cái tên dốc chú Hỏa có từ lúc đó
03 Tháng Ba 2011(Xem: 20390)
tôi rất vinh dự đã từng là cựu học sinh trường Tiểu Học NGUYỄN DU, Biên Hòa, có truyền thống tốt đẹp lâu đời và là một trong những ngôi trường đầu tiên của quê hương chúng ta, có lịch sử gắn bó với trường Trung Học NGÔ QUYỀN.
03 Tháng Ba 2011(Xem: 18889)
Bao nhiêu năm trôi qua, không còn được ăn Tết Việt Nam đúng nghĩa, mỗi độ Tết Nguyên đán , tôi vẫn ăn Tết bằng ký ức. Trong một khoảnh khắc sống bằng trí tưởng, ngày Tết vẫn còn nguyên vị ngọt ngào của bánh mứt, vẻ êm đềm của thời thơ dại.
10 Tháng Hai 2011(Xem: 19253)
Búp ơi! Em biết không chỉ cần ba mươi giây thôi vị Nguyên thủ Quốc gia tuyên bố đầu hàng đã làm thay đổi vận mệnh của một đất nước, chôn vùi cả một dân tộc trong đau thương tủi nhục, huống hồ chi từ đây cho đến giờ xổ số, em còn cả bốn năm tiếng đồng hồ thì sự hy vọng thay đổi cuộc đời em đâu phải là không thể xảy ra phải không Búp?!
10 Tháng Hai 2011(Xem: 18640)
Anh cố tìm giấc ngủ, mấy đêm trước anh còn đi vào giấc ngủ với bao nhiêu là hình ảnh vui tươi, tuyệt vời của ngày Tết Việt Nam. Vậy mà đêm nay những hình ảnh đẹp đẽ ấy biến đi đâu hết? Anh mong sao sáng mai thức dậy, đọc báo thấy tin chính quyền Việt Nam vừa… ra lệnh cấm không cho Việt Kiều về quê ăn Tết nữa. Chắc lòng anh sẽ…vui như Tết. Khỏi phải đi đâu cả.
10 Tháng Hai 2011(Xem: 19546)
Tôi đã xa Tổ Quốc nhiều năm. Thời gian không dài nhưng cũng đủ để nhớ, quên nhưng không thể xóa mùi hương có được từ những năm tháng cũ. Làm sao quên được mùi sữa Mẹ tinh khôi những ngày chưa lớn, mùi bùn trong đầm sen cuối làng thân thiết, mùi hương hoa cỏ lẫn trong sương sớm vào mùa Hạ ấm nồng
30 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 21227)
"Cô ấy đã cho tôi sự sống, cho mẹ tôi sự ấm áp, cho tôi một mái nhà, bây giờ, tôi dành cuối đời tôi để chăm sóc cô ấy" Anh dắt tay chị đi, như ngày đó chị dắt tay đứa bé năm tuổi, họ cùng mỉm cười toại nguyện, một mối tình đẹp như những áng mây chiều êm ả trôi lờ lững ở cuối lưng trời…
29 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20426)
Sau một đêm khó ngủ, tôi nghĩ đến lời hứa con cuả tử sĩ Huỳnh Tự Trọng,sẽ kể về câu chuyện có thật này. Một bí ẩn cuả Tâm Linh, đối với tôi thật vô cùng khó giải thích. Trân trọng mời quý vị cùng xem. Và gọi là chút tình với hương linh người tử sĩ.
08 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 18928)
Khi gió muà Đông Bắc phả hơi giá lạnh lùng vào mảnh vườn hiu hắt, đầu tháng Mười Hai của mỗi năm, là tôi lại chạnh nhớ đến những mùa Giáng Sinh ngày thơ ấu. Lạ một điều là trong đáy lòng tôi bỗng ấm lại,
03 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20479)
Một câu chuyện gần gũi với đời sống hiện tại, dù biết phải “ an cư mới lạc nghiệp”, nhưng vẫn phải “liệu cơm gắp mắm” mới khỏi cảnh dở khóc dở cười khi mua một cái nhà vượt quá tầm tay.
11 Tháng Mười 2010(Xem: 19191)
Chị rất đau khổ, lặng lẽ trở về nhà. Chị nhất định không kể câu chuyện cho mẹ chồng biết, cũng như bất cứ ai.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 18397)
Tôi không có đập đìa gì hết. Tôi chỉ là một người trở về từ trại tù cải tạo với tài sản duy nhất và quý giá nhất là một cô vợ chung thủy và ba đứa con ngoan. Tôi gốc gác Biên Hòa, ngày xưa làm việc ở chi khu Long Toàn này, bị một cô nữ sinh tên là Bé Năm, nhà ở gần đó, trói cổ nên đã nhận nơi nầy làm quê hương!
04 Tháng Mười 2010(Xem: 18910)
Cái nhớ của tôi lập lại nhiều lần vào những thời điểm khác nhau. Nhớ Biên Hòa là điều có thật, hay nói cách khác là không giả dối chút nào.Không biết đêm nay tôi còn thao thức và trăn trở với nỗi nhớ Biên Hòa hay không?