7:09 CH
Thứ Sáu
19
Tháng Tư
2024

từ cái chết của Trâm - tôn thất tuệ

31 Tháng Mười 201410:33 CH(Xem: 9499)
nui

từ cái chết của trâm
tôn tht tuệ
Tôi đã bị xâm chiếm quá nhiều trên đất Mỹ bằng những loại thư quảng cáo mời mua cái thìa cho đến chiếc xe, cái nhà cũng như rủ xổ số. Từ tình trạng ấy tôi thấy xa lạ với các tờ tin tức của các hội đoàn. Nhưng có một điều làm tôi thấy gần với tờ tin tức nầy cũng như gần lại ngôi trường mà tôi vẫn xem không phải là trường tôi: cái chết của Trâm. Và tôi xin cảm ơn tờ tin tức đã đăng tin Trâm chết. Thật ra tôi đã biết tin nầy ngay sau khi tai nạn xẩy ra và có lẽ lúc ấy xác người bạc mệnh còn nằm ở nhà quàn và nắp quan tài chưa khép kín.
Nhưng sao khi nằm dài đọc mấy hàng tin, tôi vô cùng đau đớn. Tôi ngưng đọc và đặt tờ báo lên ngực chẳng khác những giờ nằm dài trong ký túc xá với cuốn sách trên ngực như để dằn cái sôi động trong ý tưởng về cuộc đời riêng, ý tưởng về cuộc đời mà tôi nghĩ là chung của một khối người hay sâu xa hơn cả những gì gọi là người trong đó có Trâm.
***
Lần thứ hai tôi đến Saigon cách lần trước hai năm. Tôi gặp trời mưa. Thật là ngu si, tôi cứ nghĩ Saigon nóng và không có mưa. Con đường từ sân ga đen thẩm mà sắc thu lại bao phủ tất cả. Tôi thấy mình gần gũi với Saigon vì nơi ấy cũng có bầu trời hơi xám tuy rằng trong tâm thức tôi vẫn nghĩ Saigon nằm trong vùng đất mà tôi yêu thương, vùng đất của Việt Nam. Tôi oán trách tôi ngu dốt hay thầy địa dư không nói rõ để mà nghĩ mặt trời quanh năm ở miền Nam.
Ý thu ấy càng rõ hơn khi ngày hôm sau tôi đến trường quốc gia hành chánh ở đường Alexandre de Rhodes ngồi trong lớp mà mắt cứ để ra hàng cây ngoài công viên màu xanh chai. Tôi thấy thú vị vì cái duyên dáng của thời tiết nếu không thì đã khổ sở lắm vì phải ra đi khỏi một thành phố trầm buồn và dĩ nhiên còn để lại một cô bạn kém tuổi hơn tôi rất nhiều.
Nếu không lầm, tôi có học rằng không khí có hơi nước thì âm thanh vọng lại xa hơn và thanh hơn. Đúng vậy, bầu không khí quanh đại lộ Thống Nhất đã đưa mạnh vào tai tôi mỗi chiều tiếng quân hành của đại đội danh dự đi vào Dinh Độc Lập làm lễ hạ cờ. Tôi cũng còn nghe rõ tiếng giày nhịp đều trên mặt đường ăn nhịp với tiếng kèn đồng và trống.
Tôi gượng ép bảo đó là mùa thu ở Saigon căn cứ vào độ sáng của ngày, thật ra đó là mùa mưa, không biết đầu mùa hay cuối mùa và tác dụng của nó là đưa tiếng quân hành lên cao trong khi chiều đang đi xuống. Và như trên đã nói, nhờ ảnh hưởng của thời tiết tôi yêu mến Saigon hơn.
Nhưng Hòn Ngọc Viễn Đông còn để lại cho tôi một thắc mắc: Saigon cũng có những hàng cây giống như đường Lê Lợi ở Huế chạy qua trường Đồng Khánh của tôi. Khám phá thứ hai của tôi là từ trường đến nhà trọ đường Duy Tân quả có nhiều bóng mát và có nhiều lá rụng trên vĩa hè.
Và tiếp theo đây là điều không phải của Saigon, không phải của ý thu hay của hàng cây nơi thủ đô nầy, mà chính là của tôi. Đó là những lần trốn học. Tôi xin nói lại cái đó không phải của Saigon mà chính thật của tôi. Quả vô lý, trời đẹp thế nầy mà ngồi làm gì trong lớp; ngồi học để làn quan à? Lần đầu tiên trong đời tôi thấy điều gọi là mã số hóa con người. Nơi trường tôi, sinh viên phải ngồi nơi ghế riêng của mình. Thấy trống chỗ nào thì giám thị cứ ghi con số, con số ấy chính là tôi; thế thôi.
Nhưng mặc kệ, tôi vẫn đủng đỉnh đi ngang trường, qua bưu điện bỏ vào thùng thơ một bưu ảnh cho cô bạn ngoài kia, rồi đến hàng cây me đường Nguyễn Du ngồi uống café. Thỉnh thoảng những con sâu róm màu vàng rơi xuống đất; màu vàng nhưng pha thêm màu xanh lá non, màu của lá me non mà chúng ăn vào.
Lần trốn học nầy và những lần khác với lý do khác làm cho tôi không nhận trường kia là của tôi. Hơn hai mươi năm sau tôi nhìn lại những ngày ấy và phải thốt ra mấy câu:
        Và quen nếp nhiều lần ta trốn học
        vì ông thầy đích thực của đời ta
        là ngọn núi chiều màu tím thẩm
        rơi xuống sông và nhuộm thẩm dòng sông.
mà rất tiếc, Saigon không có dòng sông ấy, dòng sông xanh lắm ngoài kia, dòng sông chứng kiến bao lần bỏ học, sông Hương. Nhưng nay đã có ngọn núi trời đất rơi thẩm vào lòng tôi cho dù ngọn núi ấy chỉ có những con sâu róm màu vàng và lá me non.
Đó là những ngày của năm đầu tôi học ở Alexandre de Rhodes.
Qua một vụ nghỉ hè ngắn (vì phải học mất hai tháng quân sự) ở Huế nói chưa hết những lời thương mến, tôi vào lại trường nhưng không còn ở vùng có nhiều cây cao, có tiếng quân hành mỗi chiều mà trường mới xây ở đường Trần Quốc Toản bên cạnh những trại lính vĩ đại. Đường trong khuôn viên chưa làm xong, đất đỏ, sình lầy như những bãi sình với những căn nhà cao cẳng quanh đó.
Những cây điệp thấp lè tè mới đặt xuống đất không đủ lá để rụng như ở Duy Tân. Và bụi nhiều lắm. Trần Quốc Toản là huyết lộ của đảng người bay, tên vui dành cho những chiếc cyclo máy chạy vùn vụt nhả khói đen ngòm và tiếng máy la hét rùm vang. Cả một tháng trời trong ký túc xá tôi mới nhận chân một sự thật; không có mưa vào sáng sớm mà chỉ có tiếng ào ào của đảng người bay đánh thức tôi dậy trong cái nóng bừng bừng của miền Nam, trong cơn mơ chập chờn.
***
Trong khung cảnh ấy, và trong thời điểm ấy, Sylvie Vartan xuất hiện ở trường tôi. Sylvie Vartan là ca sĩ trẻ trung của Pháp thập niên 1960, tươi trẻ hơn Dalida; cô nàng có mái tóc vừa ngắn đủ chỉ để hôn nhẹ lên vai như gió thơm để lại chút tình nồng trên cỏ. Sylvie Vartan không đến với chúng tôi qua đĩa nhạc loại 45 vòng; người con gái Paris ấy đã đến với trường tôi: đã đến qua Trâm.
Trên khu đất rộng rãi xuất hiện ba khối nhà lớn theo hình hộp với một nét kiến trúc chung; tòa nhà chính là lớp học và văn phòng; một tòa nhà cho thư viện và bên trên là một thính đường; và tòa nhà kia là ký túc xá ba tầng. Họa đồ còn một tòa nhà trệt nhỏ hơn nhưng cũng rộng bằng một biệt thự. Nhà đó chúng tôi gọi là nhà của Trâm tuy là câu lạc bộ nơi sinh viên ăn uống.
Trâm không học ở đây, Trâm còn ở trung học, có lẽ ở Gia Long. Mẹ Trâm trúng thầu quản lý chuyện ăn uống cho sinh viên. Ngày nào cô nàng cũng đến giúp mẹ nhưng ít khi chúng tôi thấy Trâm xuất hiện. Thỉnh thoảng Trâm ra quày hàng bán thuốc lá lẻ cho sinh viên. Dạo ấy thịnh hành nhất là Captan rồi đến Ruby. Tôi cứ nghĩ cô nàng sợ đám sinh viên nội trú vì đi vào câu lạc bộ là phải đi qua ký túc xá. Bọn chúng tôi rất đoàn kết, mỗi khi Trâm xuất hiện từ ngoài cỗng; đoàn kết là qui tụ mắt vào một điểm, cùng la lên những tiếng thật to nhất là hai chữ Sylvie Vartan.
Trước sự tấn công đáng yêu ấy, Trâm thường đến những lúc sinh viên còn ngồi trong lớp, nhất là khi mặc chiếc áo đẹp và mặc theo tây phương, nói rõ là áo đầm. Tôi biết sự xuất hiện âm thầm ấy vì trên căn bản tôi là một kẻ trốn học nhà nghề, trốn học đến độ giám thị coi như một sự công nhiên.
Khu trường mới không có cây xanh mà ngoài đường chỉ có rác và bụi, cyclo máy chạy như bay. Chỉ có hai nơi có thể trốn tránh đó là thư viện và câu lạc bộ. Thư viện cũng khó lòng vì vào giờ học sao ngồi được. Tôi đem thư viện vào câu lạc bộ với vài cuốn sách không dính líu đến các môn học. Từ đó tôi có dịp nói chuyện với mẹ Trâm.
Bố Trâm đã chết ở Hà Nội trong một tai nạn trước 1954. Vì biến chuyển của thời cuộc, người quá phụ đem hai con vào Nam. Trâm có người anh lớn hơn một tuổi. Mẹ Trâm nói tiếng Pháp rất rành và khi nói chuyện với tôi thường dùng các danh từ Pháp văn chen vào câu nói. Người ta tìm thấy ở bà một mẫu chung của thời ấy: có nhan sắc và học vấn nhưng không cho cái nhan sắc ấy bành trướng vì cái tang chồng nhưng không dấu hết cái kiêu sa trong lối ăn mặc giản dị màu trắng hay đen. Điều đó cũng ảnh hưởng y phục của Trâm.
Với giờ giấc bất thường của tôi, mẹ Trâm dành cho tôi một đặc ân; nhiều lúc tôi được dọn ăn một mình trước hoặc sau các bạn. Điều đó thật bách tách, nhất là cách xếp đặt thực khách bốn người một phần, gọi là carré (hình vuông). Nhờ vậy tôi có dịp làm ra vẻ trưởng giả: có một tờ báo trên bàn.
Dạo ấy tôi cố đọc tiếng Pháp để tự học nên mượn được tờ Le Monde của thư viện trước khi báo xếp vào kho. Một hôm, không nhớ lý do gì bà chủ gọi tôi vào phía trong, hình như để giúp bà đem một vật gì nặng ở trên cao vì người làm đi đâu cả. À đúng thế, tôi còn nhớ mẹ Trâm đùa:
- Ông giúp tôi một tay, tôi sẽ thưởng cho một tách nước trà và một phần tư cái bánh cốm Song Hỷ. Trà tàu chính cống. Ông có thưởng thức được chứ? Dân Huế mà.
Tôi đáp:
- Quê lắm bà ơi, tôi chỉ biết uống chè xanh, bỏ vào chút gừng, ăn kẹo đường đen, uống trong cái tô múc canh.
Sau khi giúp mẹ Trâm đem một thùng chén bát từ trên kệ cao xuống, tôi được mời một chén trà. Bộ tách nhỏ xíu đứng quanh cái bình đất màu nâu thường gọi là bình gan gà. Thay vì một phần tư, tôi được cả cái bánh cốm còn nguyên trong giấy thiếc. Lần đầu tiên tôi biết nó gọi là cốm, tuy đã nhiều lần ăn, rất quen thuộc với một thứ nếp non xanh lá, nhụy đậu xanh thơm mùi bông bưởi. Với tôi, cốm là một thứ bắp hay gạo ran tẩm với đường đen, vò thành viên tròn bằng nắm tay hay đúc thành khối lập phương. Nó không kiểu cách như thế.
Trâm đứng gần đó, tay cầm một tờ Le Monde có dấu thư viện. Tôi đoan chắc tờ báo tôi để quên nhưng không bộp chộp nhìn của. Trâm như nửa đọc tờ báo nửa đang suy nghĩ điều gì. Bỗng nhiên cô nàng đưa tờ báo cho tôi và hỏi một chữ trong đó. Tôi trố mắt nhìn Trâm. Sao Sylvie Vartan lại đọc một bài về chính trị, vả lại Le Monde rất khô khan và bài vở như muốn viết cho khó ra. Trâm cho biết trong đó có một bài nói về những ngày cuối cùng trước khi Hà Nội bị tiếp thu, có vài điều liên hệ đến vùng gia đình Trâm ở. Mẹ Trâm đọc và Trâm tò mò đọc theo. Tôi buột miệng nói:
- Cô có óc chính trị như thế thì vào cái trường nầy mà học còn tôi có lẽ sẽ bị đuổi nay mai.
- Em dốt lắm, chưa chắc đậu bằng tú tài huống hồ cả ngàn rưởi người thi mà chỉ lấy một trăm. Con gái mà, học gì cho cao. Học làm bếp mà chưa xong. À hôm kia ông bỏ quên tờ báo me bảo cất cho ông, không thì thư viện họ đền cho chết. Me bảo ông chưa già mà quên trước quên sau.
Tôi ngồi mãi bên bình trà, thấy mình già đi cả hai chục tuổi. Hơn nữa đó là chỗ ông bà ngoại Trâm thường ngồi mỗi khi đến thăm chỗ làm ăn của cô con gái góa bụa. Hôm ấy sáng chủ nhật nên quang cảnh yên lặng; sinh viên đi ciné hoặc ở rạp xập xệ Đại Đồng cách trường chừng ba trăm mét hoặc đi xe buýt về Saigon vào Rex ngồi rồi qua café Chùa (La Pagode).
Bên ngoài là ba khối nhà hộp diêm riêng rẻ không ăn nhập vào nhau ngoại trừ sự liên lạc rất nhỏ nhoi là các sợi dây điện từ góc nầy qua góc kia. Khoảng trống ấy dành cho một thứ nắng yếu ớt nhưng không đủ để nêm vào các khe hở của ngoại cảnh. Đó cũng là kẻ hở giữa tôi và trường, không thể lấp kín bằng những bài học khô khan của môn khoa học quản trị kèm với các bài đầy tính cách tuyên truyền hơn là phân tích ở cấp đại học.
Tôi thèm khát cái vĩa hè sách cũ. Tiếng vọng ấy làm tôi bị ray rứt khi đang ngồi trong câu lạc bộ với bóng dáng Trâm qua lại, gần cũng không gần, xa cũng không xa. Tôi nghĩ phải có quyết định là ngồi tiếp ở đây hay ra đường. Tôi sờ trong túi và biết mình có hai đồng.
Với hai đồng đó tôi sẽ huy hoàng vô cùng. Trong đầu tôi, nhanh như chớp, tôi phân tích ngân sách như người ta dạy tôi phân phối ngân sách quốc gia, ngân sách từng cơ quan. Một đồng rưởi sách cũ, năm mươi xu bốn điếu Bastos xanh rồi nằn nì xin thêm trái cốc xanh nhỏ xíu.
Con đường Cao Thắng nghi ngút hương khói như lăng Ông Bà Chiểu. Đó là những cây nhang to bằng ngón tay út để mồi thuốc lá, chỉ có khói mà không dấu vết trầm hương. Những miếng thịt luộc, những sợi lòng heo hay lá gan móc ở xe hàng cháo rung động nhè nhẹ mỗi khi xe chạy qua. Cái xô bồ ấy nó cũng êm ả, nó cũng ăn nhịp với mớ sách vĩa hè. Nó cũng ngọt ngào với chén chè hay chuối xào dừa v.v...
Và chắc chắn nó cũng êm dịu ngọt ngào như cái câu lạc bộ với chén trà ở cạnh Trâm tuy về vật thể và tiếng động khác nhau. Đó là một quyết định khó làm vào một buổi sáng không đặc biệt trong chuổi ngày sinh viên.
***
Những điều tôi viết trên đây nhằm nói rằng ngay lúc ấy cộng đồng nho nhỏ gồm có thầy trò và ngôi trường có thêm những yếu tố ngoại vi nhưng sau nầy cái ngoại vi ấy đã thành nội vi của những ai đưa mắt về ngôi trường cũ với cảm quan và kỷ niệm riêng. Như sẽ nói sau, Trâm đã vào tập thể ấy không qua thẻ sinh viên mà qua một tờ hôn thú với một người bạn cùng trường của tôi.
Giữa định mốc là chén trà nói trên và đám cưới ấy, cuộc đời sinh viên của tôi hoàn toàn khác biệt với lối sống chung của anh em trên mọi khía cạnh. Tôi ít ở lại trường và từ đó ít khi đến câu lạc bộ và dường như chẳng để ý đến con người tên Trâm. Duy chỉ một lần hết sức tình cờ tôi đến nhà Trâm vào dịp Giáng Sinh 1964. Nhà Trâm ở vùng Trương Minh Giảng gần nhà thờ Ba Chuông, trong xóm đạo của người Bắc di cư 1954.
Tôi không phải đạo Chúa nên được cho ăn sớm vì cả nhà phải chờ đến lễ canh thức mới tận hưởng các món ăn vào dịp nầy. Cả gia đình tiếp đón tôi và cho tôi cái không khí thân mật thiết yếu. Với trí óc lãng tử và mơ mộng, tôi nghĩ mình như dừng chân một đêm Giao Thừa mà Thế Lữ đã tả trong bài thơ làm phụ bản cho cuốn Đôi Bạn của Nhất Linh. Cái bềnh bồng ấy khiến tôi không ở lại đây lâu mà đi lang thang khắp ngõ để nhìn đèn màu trong các máng cỏ. Lúc ấy lòng tôi cũng đầy cảm thức nguyện cầu chung với sự nguyện cầu của người Ky tô giáo.
Bẳng đi một năm tôi trở lại trường hay đúng hơn là trở lại ký túc xá và có thể nói là bỏ học chứ không phải trốn học nữa. Tôi ở lại lớp vì một lý do đặc biệt. Và theo qui chế nhà trường, năm ấy tôi không có học bỗng. Mẹ Trâm biết điều đó nên bảo tôi cứ ăn cơm ở câu lạc bộ chừng nào ra làm quan rồi trả sau. Để tránh cho tôi mặc cảm thiếu nợ và vì thiện tâm, bà dọn cho tôi những bữa ăn tươm tất hơn thường lệ và hỏi thăm tôi hằng ngày nhiều hơn. Tôi thấy yên ổn về mặt nầy và cố theo đuổi tờ báo của sinh viên.
Năm ấy tôi thấy mình xa đời nhất nếu không muốn nói là cố làm ông già non. Vì lý do thời cuộc, tôi rất chán nản. Tôi cũng không để ý đến Trâm. Tôi nhớ chỉ có một lần tặng Trâm tấm ảnh mua ở xứ khác tháng tám 1964.
Ra trường cả sáu tháng tôi mới trở lại gặp mẹ Trâm để thanh toán các món nợ; vì trục trặc giấy tờ, lương bỗng lèn èn như vậy. Đó là lần cuối tôi gặp gia đình Trâm. Và sau đó ít lâu tôi được tin Trâm về làm dâu trường nầy, nói khác đã thành bà Thọ phu nhân của một đấng ra trường sau tôi một năm.
***
Mãi cho đến khi đi tù tập trung về, cũng rất tình cờ như dạo trước, tôi đi bộ qua khu Trương Minh Giảng. Nhà Trâm năm xưa nay treo cờ hồng thập tự. Ôi thôi nhà đã bị tịch thu; nghĩa là gia đình đã di tản 75 hay vượt biên về sau. Nhưng tôi vẫn mom mem đến hỏi. May quá, phần sau của tòa nhà vẫn còn và do anh của Trâm ở.
Nhờ đó tôi biết mẹ Trâm đã chết; ông bà ngoại còn sống và hiện ở Vũng Tàu vui với một vườn ổi trong sự đau buồn vì đã mất người con gái góa bụa và cậu con trai vẫn còn trong tù lúc ấy đã sáu năm. Có lẽ nhờ vị trí gần biển họ đã đưa một trong hai vợ chồng Thọ Trâm vượt biên và lúc tôi đến thăm, một người còn ở Vũng Tàu chờ đi. Tôi không nhớ ai đi trước, vợ hay chồng. Đến Mỹ, tôi nghe nói gia đình nầy ở Houston, Texas.
Hai năm sau tôi gặp một mình Thọ ở Cali trong một buổi họp mặt cựu học sinh Quốc Học Đồng Khánh. Thọ cho tôi số điện thoại viết trên khăn giấy. Tôi chưa bao giờ gọi. Hai tháng sau tôi nghe tin Trâm chết trong một tai nạn lưu thông cũng ở Cali. Và tôi đọc tin Trâm chết trên tờ tin tức của trường.
***
Tôi xếp tờ tin tức để lên ngực, nằm dài như một người đang chết tay mỏi nhừ vì một cuốn sách đang đọc với những dòng thơ trường hải, như của Dante, của Nguyễn Du... những ngày nằm dài trong ký túc xá với những ước vọng vỡ tan.
Câu chuyện về Trâm như trên chỉ có thế thôi, không có gì đáng nói, không có gì phải ghi. Mỗi tích tắc trên quả đất có bao người chết vì muôn ngàn lý do: nào đói khổ ở Phi Châu, nào ngã gục trong tù Việt Nam, bom đạn khắp nơi ... Cũng trong tích tắc ấy bao đứa trẻ mới sinh có đủ màu da đen trắng vàng từ những cặp vợ chồng có đầu óc nhuộm đỏ, từ những bà mẹ ngây thơ, từ những thiếu phụ bị hảm hiếp ... Trong dòng sinh thành và hủy diệt ấy có cái chết của Trâm. Có thế thôi. Nhưng sao tin ấy nó làm tôi đau đớn sâu xa, sâu xa vô cùng. Có lẽ tôi đã nhấn chìm nó trong tiềm thức từ khi nghe tin Trâm chết hơn tháng nay. Niềm đau ấy đã được nuôi dưỡng ở đáy sâu vực thẳm, bây giờ như cọp sổ chuồng nhảy ra cấu xé mãnh lòng tôi.
Lúc ấy trong tôi mọi sự đều không đi theo đường thẳng, chỉ có đường cong, đường vòng. Những đồ vật trong kho lẫm trí tưởng đều liên hệ với nhau cho dù không ở trong một cấu trúc thống nhất như các ngôi nhà trường tôi và câu lạc bộ đứng riêng rẻ nối nhau bằng những sợi dây điện.
Một đoạn trong truyện ngắn Les Etoiles (Những Vì Sao) của Alphonse Daudet sống lại như sau: Ở vùng Alpe mùa khô phải đem cừu đi ăn trên núi cao. Chàng chăn cừu chỉ có liên lạc với thế giới bên ngoài bằng hai lần tiếp tế mỗi tháng. Hôm ấy sao người con gái chủ trại làm công việc nầy. Nàng về rồi trở lại vì mưa lũ ngập lối đi, phải ở lại qua đêm nơi hoang dã ấy cùng núi rừng, sương, sao và đàn cừu. Một ngôi sao băng vẹt sáng bầu trời. Chàng chăn cừu nói với người con gái: "một linh hồn vừa chợp tắt, em hãy cầu nguyện cho linh hồn ấy".
Tôi vẫn nhắm mắt. Một vệt sáng chạy qua đầu rồi tắt hẳn. Như người con gái ấy, tôi cầu nguyện cho linh hồn kia, linh hồn của Trâm.
Không biết chuyện gì xẩy ra bên đó, bên đó là bên kia cuộc sống của chúng ta; và không biết cái bên đó có hay không. Nhưng Trâm chết; cái tin ấy cho tôi thấy thêm cái mong manh của cuộc đời. Cái mong manh đó con người đã thấy tự ngàn xưa; chúng ta đã được dạy những điều đó trong thơ văn vào lúc tuổi trẻ đang lên nắm chắc sự sống trong tay. Tri thức ấy đem lại cho thời niên thiếu ý niệm mong manh của tình yêu, tan hợp ngày hè, chuyển trường, lên lớp... Càng lớn tuổi, con người nhận chân và cảm nghiệm sự mong manh ấy chính là cuộc đời mà cao điểm là cái chết.
Chắc chắn tôi không thể đem điều nầy làm một lối dụ dỗ người ta mua bảo hiểm nhân thọ, tuy rằng đây không phải là nghề của tôi.
Chuyện của Trâm chỉ có thế. Nhưng sao nó làm cho tôi dật dờ như sờ được cái chết trong tay. Tôi không thể viết tiếp. Lục lọi mấy bản thảo như một khí giới chống lại các đường thương của ma quái, tôi gặp một đoạn viết chồng trên một truyện ngắn khi gởi tặng một người quen, con giữ phóng ảnh. Xin trích để gỡ thế bí nầy:
Cho đến nay tôi chưa bao giờ chứng kiến giây phút cuối cùng của một đời người từ sống qua chết; tôi chưa thấy ai chết trận; tôi chưa bao giờ đi xem xử bắn. Tôi chỉ thấy các xác chết đã lạnh, những quan tài phủ cờ trên vùng đất nghèo gió cát Do Linh Quảng Trị, chết vô thừa nhận, chết vì thanh toán trên lề đường ... Nhưng cái chết cứ ám ảnh tôi, tuy không ai khỏi chết dù là Không Tử, dù là Albert Einstein, dù là Beethoven.
Cái gì cho cái chết một ý nghĩa nó cũng cho cái sống một ý nghĩa. Cái chết tự tử vì tình cho thấy đời nạn nhân là một cuộc tình. Cái chết của Nguyễn Tri Phương cho thấy tấm lòng đầy đủ với quê hương. Trương Chi mang xuống tuyền đài khối tình trong suốt thủy tinh. Cái chết thành đá của thiếu phụ trên núi là ý nghĩa của chờ mong. Và muôn ngàn cái chết khác trong tăm tối trong quang vinh.
Khi đọc lại phần viết trên, tôi thấy bối rối vô cùng. Thay vì gỡ bí cho cây viết, nó đặt cái chết của Trâm vào một khung cảnh đa dạng mà con người có thể tưởng tượng để thấy quang cảnh bên kia sự sống. Tôi không muốn cho ý tưởng chạy mãi, lạc mãi vào thế giới không hình tượng ấy. Tôi muốn đem tôi về với cái tin Trâm chết.
Nhìn lại cuộc đời lưu lạc của chính mình, tôi thấy cái chết của Trâm như xa hơn trong thời gian, không gian và tâm cảm. Chữ lưu lạc trên đây vừa nằm trong ý nghĩa vật thể tức là sống trên xứ người ta, vừa có nghĩa là đi mãi trong vùng những khát vọng vĩnh cửu không vời đến được.
Trong trạng huống ấy, tôi thèm muốn ngồi yên một thoáng ban mai bên mẹ Trâm, có Trâm qua lại xa xa gần gần, nhìn ánh nắng quện quanh những hạt sương đọng trên cỏ non mà quên đi cái hình thù cục mịch đầy góc cạnh của những khối nhà ở trường cũ.
Từ cái chết của Trâm, tôi nghe rõ tiếng mưa rào rào không có nước đổ, cái mưa đánh vào cửa kính từ họng xe cyclo máy. Tôi sờ được cành cây khô đem cắm trong cái bình vỡ mà đón giao thừa trong ký túc xá. Tôi sờ được những cuốn sách không người đọc nằm miết trong thư viện.
Từ những thứ đó, tôi không còn thấy cái chết của Trâm. Cái nắng ban mai ấy, cái mưa rào không nước ấy, cành cây khô ấy ...là những thứ bảo hiểm nhân thọ cho Trâm trong nghĩa bảo vệ cho chính sự sống trường cửu, không dính líu gì cái bảo hiểm mua bán hằng ngày.
Tôi đã tìm gặp một thứ bảo hiểm nhân thọ đời đời cho Trâm. Tôi không thấy Trâm chết, Trâm ơi!----
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
28 Tháng Hai 2021(Xem: 6701)
rong cơn bão tuyết khốn khó cho việc đi lại, thực phẩm khan hiếm, nhưng có “những tấm lòng vàng”
19 Tháng Hai 2021(Xem: 5870)
Sức khoẻ quý thật, nhưng quý nhất, trên cả sức khoẻ, là cái nhìn thấu suốt cuộc đời, sinh lão bệnh tử, để chấp nhận dễ dàng một khi sức khoẻ mất đi.
13 Tháng Hai 2021(Xem: 6925)
Làm hết sức mình, kiểm điểm lại những gì mình đã hành động để sửa sai. Như con trâu lặng lẽ nằm nhai lại cỏ.
12 Tháng Hai 2021(Xem: 7333)
để thấy mình vẫn còn loanh quanh đâu đó một nơi rất gần, tôi nghe thấy mình đang chạm trần vào mùi hương của tết.
12 Tháng Hai 2021(Xem: 6348)
Thời gian không là gì cả! Nếu không thể chạm được tay vào quá khứ, thì ta cũng còn đây ký ức để quay về
30 Tháng Giêng 2021(Xem: 6063)
“Công dưỡng dục suốt một đời lận đận Nghĩa sinh thành vương vấn cả trăm năm”
29 Tháng Giêng 2021(Xem: 6623)
Trời ơi trong 3 tháng mùa Đông, ngay cả cái lưng im lặng, cái dáng rất buồn đó
17 Tháng Giêng 2021(Xem: 5424)
nhưng trái tim tôi vẫn yêu nơi này: Làng quê Bình Sơn nghèo nàn, phố quận Long Thành thân thiết và ngôi trường Trung Học một thời mới lớn
17 Tháng Giêng 2021(Xem: 5285)
Thư này là lá thư thứ 49 nhưng lại là lá thư đầu tiên của năm 2021. Đáng lẽ là một thư vui, lạc quan, tràn đầy hy vọng và niềm tin. Nhưng thư này không được như thế! Xin đổi ngược hai chữ Người và Cảnh trong câu thơ của Cụ Nguyễn Du để bày tỏ: “Cảnh buồn Người có vui đâu bao giờ…”. Mong Các Bạn Mình thứ lỗi.
14 Tháng Mười Hai 2020(Xem: 5583)
Cuối cùng là màn bắn pháo bông, ban nhạc vẫn tiếp tục chơi nhạc, đèn vụt tắt, trên nền trời tiếng đì đùng vang vọng, pháo hoa rực rỡ, trên cao từng vòm pháo hoa chụp xuống
14 Tháng Mười Hai 2020(Xem: 5523)
Dường như nước Mỹ có thói quen đi đêm. Cái gì cũng bí mật, cũng thông đồng có hiệu lệnh ngầm.
29 Tháng Mười Một 2020(Xem: 5568)
Cám ơn với tất cả lòng trân trọng cuộc đời này, hạnh phúc này. Kính chúc những người tôi yêu thương thật nhiều sức khỏe, an lành và hạnh phúc.
02 Tháng Mười 2020(Xem: 6021)
Sống Linh Thác thiêng, Xin Anh Phù Hộ cho toàn thể ACE / CH / ĐC THƯƠNG YÊU ĐOÀN KẾT CÙNG NHAU NẮM TAY QUYẾT TÂM ĐI ĐẾN ĐÍCH
30 Tháng Tám 2020(Xem: 6815)
sẽ làm hành trang giúp cho chúng cân bằng và vượt qua những thử thách của cuộc đời, để có thể vươn cao và vươn xa hơn.
28 Tháng Tám 2020(Xem: 6828)
Tôi thành thật xin lỗi những bài nhạc lính, xin lỗi các tác gỉả, những người hát chúng, một trăm ngàn lần. Mà vẫn thấy chưa đủ.
23 Tháng Tám 2020(Xem: 6171)
Chiếc ghế trang trọng dành cho Thầy vẫn luôn nằm trong lòng mỗi người học sinh Ngô Quyền xa xứ. Chúng con xin hứa sẽ làm tốt để xứng đáng với sự dạy dỗ và thương yêu của Thầy.
16 Tháng Tám 2020(Xem: 6098)
hôm nay Thầy Phan Thanh Hoài không rưng rưng ngấn lệ, nhưng mặt đỏ bừng sau những ly rượu chúc mừng
06 Tháng Tám 2020(Xem: 6265)
như thầm nhắn nhủ rằng chúng ta dù thân xác hèn kém nhưng cố giữ cái tâm để biết sống tử tế cho nhau dù qua tháng ngày nắng vội.
14 Tháng Sáu 2020(Xem: 6450)
Rất mong chúng ta thoát ra khỏi thời kỳ mắc dịch này để người dân trở lại cuộc sống yên bình, thoải mái như xưa.
13 Tháng Sáu 2020(Xem: 6906)
Sài Gòn có một con phố cong queo một cách rất ngộ nghĩnh, được đặt tên là phố Cống Quỳnh. Thật là khéo, vì cách lập luận và hành động của ông Cống Quỳnh
29 Tháng Năm 2020(Xem: 6569)
Một chân thành cảm ơn đến tất cả các cố gắng vượt bực để thực hiện những bộ phim trong thời chiến, đặc biệt những phim nói về chiến tranh
12 Tháng Năm 2020(Xem: 6951)
cũng như không còn nhìn thấy anh đậu xe bên lề freeway 101 trong cái nắng chói chan để đón đợi và mời chúng tôi đến phở Lý
07 Tháng Năm 2020(Xem: 7020)
Vào trại chừng hai tuần, thì tôi gặp được người quen cùng quê ở Biên Hòa, chị Huệ và gia đình Cô Tư Kiên, thuộc toán áo xanh đến trước
05 Tháng Năm 2020(Xem: 6810)
Tôi luôn luôn kính nhớ ơn Trên đã ban cho chúng tôi phước lành, may mắn ra đi được trong ngày 30/4
29 Tháng Tư 2020(Xem: 6430)
Còn anh, còn chị, còn các bạn. Ngày 30 tháng 4 năm đó đã làm gì? Ở đâu?
25 Tháng Tư 2020(Xem: 47142)
một nén hương lòng thành kính tưởng nhớ đến anh Thủy, đến đồng đội của anh, và tất cả những người lính Việt Nam Cộng Hòa đã "vị quốc vong thân"
13 Tháng Tư 2020(Xem: 66979)
mênh mông không bằng nhà mình, dù cho phú quý vinh quang, vinh quang không bằng có Mẹ
13 Tháng Tư 2020(Xem: 24942)
Không biết phải dùng chữ gì thay cho ba dấu chấm đỏ đây?
11 Tháng Tư 2020(Xem: 5983)
Cầu mong các thế hệ kế tiếp sẽ không bao giờ phải chịu những tổn thương tinh thần lẫn vật chất như chúng ta hôm nay
11 Tháng Tư 2020(Xem: 5978)
Bình an sẽ trở lại. Cầu nguyện cho Ngài thật sức khỏe và bình an.
10 Tháng Tư 2020(Xem: 6293)
Duyên chỉ cười nhưng chưa hứa nhận lời, không thể và có thể biết đâu còn cơ duyên.
09 Tháng Tư 2020(Xem: 7013)
Ôi! thời thơ dại, còn đâu nữa! Tuổi hoa niên, đèn sách miệt mài.
07 Tháng Tư 2020(Xem: 5521)
Đời sống vốn buồn nhiều hơn vui,trong tình hình này dường như phải đổi thành đời sống vốn dĩ buồn lo
05 Tháng Tư 2020(Xem: 5765)
cũng như niềm an ùi của những ngày còn lại của cuộc sống nầy, là được gần gủi bên mấy con chó thân thương trong khoảnh khắc bình an
03 Tháng Tư 2020(Xem: 6378)
thế hệ con cháu tôi ngày nay không thể nào tìm lại được các giá trị ấy ngay trên chính quê hương của tôi
02 Tháng Tư 2020(Xem: 5651)
Tất cả mọi thứ đều bị hoãn lại từ các sự kiện quốc tế như Olympics, giải Vô địch bóng tròn Châu Âu, các hội nghị Khoa học, các buổi trình diễn
31 Tháng Ba 2020(Xem: 5462)
Đà Nẳng lúc đó người như nêm cối. Xe cộ in õi. Nóng nực vô cùng. Ai cũng vội vã chen lấn tìm đường đi
28 Tháng Ba 2020(Xem: 5925)
Cái thứ hai xin lỗi nước Mỹ vì đã vu khống dịch họa này là do quân đội Mỹ đưa Virus vào Trung Quốc.
25 Tháng Ba 2020(Xem: 6407)
Đêm cuối trong căn nhà cũ, tôi biết rằng mình không chỉ gánh trên vai một gánh quê hương.
24 Tháng Ba 2020(Xem: 5472)
Thương quá! Mồ mẹ cỏ đã xanh nhường kia mà các con vẫn khóc ngất. Thương quá
23 Tháng Ba 2020(Xem: 6010)
Đời như sóng nổi- Xóa bỏ vết người…” “Ai mang bụi đỏ đi rồi!
21 Tháng Ba 2020(Xem: 6202)
Anh hùng tử khí hùng bất tử, họ là những tấm gương một lòng vì nước vì dân, họ là những vị Tướng bất tử.
17 Tháng Hai 2020(Xem: 6212)
Tôi đang đợi tết cùng với quê nhà và cớ làm sao nghiêng về phía nào, tôi cũng nghe tiếng lòng mình rung động!
01 Tháng Hai 2020(Xem: 8162)
Quê hương mang nặng nghĩa tình,Quê hương tôi đó đẹp xinh tuyệt vời.
13 Tháng Mười Hai 2019(Xem: 7096)
Tin hay không, tôi nghĩ đã có một Đấng Thiêng Liêng nào đó đưa đường dẫn lối cho ghe nhỏ của chúng tôi tới được bến bờ.
12 Tháng Mười Hai 2019(Xem: 6345)
Ông là một nhân chứng quý báu của một giai đoạn bi thảm, một cuộc đổi đời ghê rợn nhất trong lịch sử Việt.
08 Tháng Mười Hai 2019(Xem: 8746)
Về thăm anh thôi. Hồ sơ em bảo lãnh anh sang với em bị bên kia người ta bác rồi
04 Tháng Mười 2019(Xem: 7792)
Vậy là 38 năm đã trôi qua, rồi câu chuyện bốn trăm năm chiếc cầu trên sông Drina, và còn biết bao chuyện của một thời chưa nói hết. Buồn!
22 Tháng Chín 2019(Xem: 7423)
Chúng tôi được họ cưu mang, dìu về căn nhà lá, đốt than rừng sưởi ấm tình người vào đêm thứ 41 trên tuyến đường vượt biển.
30 Tháng Tám 2019(Xem: 7352)
Tôi thường nghĩ cái gì của mình ắt sẽ tự đến, tự nhiên như cây cần có nước, như hết Hè lại sang Thu