Tôi có anh bạn xa. Thật xa. Xa từ tuổi tác: anh 71, tôi 52; xa từ phong cách:
anh điềm đạm nể nang còn tôi sôi nổi ngang hàng; xa từ cách chơi bạn: anh đằm
thắm kín đáo trong khi tôi thoải mái mạnh miệng. Xa luôn cả nơi sinh sống, anh
San Jose bên Mỹ; tôi Toronto, Canada. Nhưng có một thứ không xa là cả anh và
tôi đều yêu thích cái viết. Dù cái thích của anh nó trân trọng, nó trải dài, nó tới nơi; còn tôi, tôi chỉ quanh năm
lõm bõm, bạ đâu đọc đó trong mấy cái thư viện free hay trong mấy tờ báo lá cải
ai bỏ xó đâu đó và ít khi nào tôi đọc cho xong nổi một cuốn sách!
Anh là một nhà giáo dạy Triết và là nhà văn thành
danh đã lâu, từ trước 75. Anh quen biết rộng rãi. Hầu như nhà văn, nhà thơ, họa
sĩ, nhạc sĩ nào có tiếng tăm thì anh cũng đã từng ngồi cà phê với họ; ngay cả
như tôi, một người chân ướt chân ráo lấp ló chuyện văn chương mà anh cũng...
giao tình! Gần 50 năm anh gắn bó với chữ nghĩa, gắn bó liên tục không ngưng nghỉ,
không tùy hứng như người ta. Gắn bó như sự sống và hơi thở. Như Thầy Nhất Hạnh
gắn bó với đạo, với hơi thở ra, với hơi thở vào mà không hề biết chán. Gắn bó
như anh không còn biết làm bất kỳ điều gì khác trong cái đời có lẽ mãi phiêu
lưu trên chiếc tàu chữ nghĩa như một cái nghiệp số này của anh. Cái đời mà đã
biết bao lần làm anh thở dài, anh trăn trở, cái đời mà cứ ám ảnh anh chuyện tuổi
thơ nghèo khó, ám ảnh anh chuyện ly tán, chuyện chiến tranh, cứ ám ảnh anh sự
ra đi cùng những nỗi khổ đau của nhiều bè bạn cầm bút bất hạnh khác; rồi trong
vài cơn say suyễn chuyện nhân sinh, anh đã nhiều lần nghĩ tới cái chết, nghĩ tới
những cơn hồng thủy cuồng nộ nổi lên và cuốn phăng với nó cả cái vũ trụ ngã
nghiêng sầu thảm này. Lắm lúc tôi thấy anh không hẳn chỉ là một người cô đơn tận
xương tủy mà còn là một kẻ đã bị con ma huyễn tưởng kia nhập hồn. Chắc nhờ có hồn
ma nên bài nào anh viết coi ra cũng...phù phép lạ lùng.
Phải nói mà không sợ anh buồn là tôi thấy văn anh
sao bế tắc quá. Lúc anh vui thì ngòi bút anh cũng buồn, lúc anh buồn thì...khỏi
nói, nó quay quất não lòng! Tôi không dám nói tôi mê văn anh được là vì vậy.
Tôi còn thấy văn anh nó mẫu mực, nó hiền, và nó quá khứ quá, có khi nó lạc điệu
u hoài dù ấy là ở ngay những bài văn dữ dội nhất, đề cập tới những vấn đề hiện
tại nhất trong những ngày có lẽ là bình tĩnh nhất của anh. Hình như tôi thấy ai
cũng đồng ý là cây bút anh rất nồng nàn, rất xoáy, rất gần gũi với người đang đọc
nó nhất là những người thuộc thế hệ lớn hơn. Hình như ai cũng biết anh có lối
viết trôi chảy, sâu hoắm, mềm dẻo, tỉ mỉ mà không li ti, nhất là với những bài
viết ngắn của anh trên VOA trong mấy năm gần đây khi những sự chán chường trong
anh càng ngày càng không còn giữ kín được nữa...
Tôi tự biết mình chưa có cái nhìn chuẩn về văn học,
chỉ toàn cảm tính nên tôi không hề dám chờ có ai khác đồng lòng với những cảm
nghĩ của mình về văn anh. Có một cái lý do nhỏ mà đã làm cho tôi dám nhận định
và đã dám viết ra một cách ngông nghênh như thế là vì : Đó cũng là cái tánh chướng
lạ mắt (hay nói ra ý mình mà không ngại ai nghĩ gì) mà hình như anh rất thích
ngắm nhìn ở nơi tôi. Nó có lẽ là cái điểm mà chắc anh dễ nhớ ở tôi nhất. Và
cũng chưa bao giờ anh tỏ ra giận dù đáng lẽ nhiều lần tôi nghĩ anh sẽ phải giận
vì những thứ ý kiến ngang nhiên ấy của tôi trên VOA. Quen nhau, chắc anh cũng
biết tánh tôi ít thích ca ngợi đánh bóng tài ai; và ngược lại, tôi cũng ít khi
biết coi rẻ ai vì kém tài. Sống ở đời, với tôi, hầu như mọi cái tài lớn nào
cũng phải nhờ Trời cho sẵn, nhất là cái tài văn. Có kính trọng chăng là kính ở
cái ý tưởng, cái nhân tính, cái cốt cách con người và ấy là những chỗ mà tôi đã
tìm tới anh. Với tôi, trước hết, anh như một người bạn, anh như một người anh rồi
mới đến anh là một nhà văn…
Giờ thì ác mộng của kiếp người đã biến thành sự thật
với anh, anh đã ngã bạo bệnh , đang nằm đếm những ngày còn lại. Chắc bên anh
bây giờ là cái địa ngục đang trao tráo mở mắt kêu réo tên anh mỗi ngày. Chắc
anh nhìn mọi thứ đều thấy ra xa xôi lắm. Xa như tất cả chúng không còn mang cái
to tát ý nghĩa gì nữa như những ngày anh còn trẻ, anh còn khoẻ.
Nhớ khoảng 6, 7 năm về trước khi sức khỏe tôi cũng
đã suy giảm, tôi phải dọn về London, cách Toronto này chừng 2 giờ lái xe. Tôi mở
VOA lên và ấy là lần đầu đọc được bài viết của anh. Trước đó, tôi đã đọc đôi
dòng anh tự giới thiệu về mình, cái cách giới thiệu khiêm tốn hạ mình và tôi đã
để ý tới anh nhiều hơn. Rồi tôi đã viết những ý kiến mình trên VOA, nói tôi nhận
thấy hầu như bài văn nào của anh cũng bi quan, cũng buồn tham lam vô cớ chứ
chưa biết cám ơn cuộc sống đã đủ tốt đẹp này dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Anh
im im và chắc anh cũng… bực. Tôi ý kiến kiểu đó cũng vài lần nữa, anh cũng im
im (dù thời gian đầu trên VOA, các tác giả có thỉnh thoảng trả lời chứ không
như sau này). Có vài người trên VOA phản bác lại tôi thật nặng nề nhưng tôi
không hề giận mà còn quay qua xin... làm bạn với họ nữa vì tôi thấy thích những
người “thấy chuyện bất bình không tha” như vậy!... Có chị nhà văn, giáo sư ngoại
ngữ đại học Hà Nội đã trở thành bạn tôi cũng từ mấy cái vụ qua lại đó. Tôi
đoán, chắc anh đã để ý tới tôi nhiều hơn do tôi không nóng giận những ai phản
bác mình như thế. Tôi thường nghĩ, kẻ không ưa mình thì còn có ngày ưa mình; kẻ
thờ ơ “sống chết mặc bay” thì vô vọng, họ chỉ biết ưa cái nhu cầu của họ!
Rồi ngày kia, tôi viết bài và liều gửi thử anh đọc
để mong anh thấy hay mà... đăng. Bài thứ nhất của tôi về kỷ niệm Ottawa và kèm
đại theo số phone. Anh gọi lại trong sự ngỡ ngàng bất ngờ của tôi. Trên phone,
anh vui vẻ và nhiệt tình qua cái giọng Nam thoải mái, cười cười xuề xòa không
giống gì là kiểu cách bề thế của một nhà văn, nhà chủ bút lâu năm của anh. Nhớ
lần ấy, vào khoảng 11 giờ sang, Trời thật đẹp, tôi hân hoan nghe anh khen bài
tôi viết. Khen sao mà tôi đợi hoài không thấy bài mình được đăng! Tôi liều gửi
anh bài nữa, “Thầy và tôi”. Anh khen nữa, bảo trên phone : “Anh thích bài này!”
Lại thích. Lại tôi chờ mỏi con mắt mà không thấy anh đăng! Nhưng lần này anh giải
thích sau cả tháng im lặng, giọng anh cảm thông: “ Tại VOA không đồng ý, anh biết
sao!” Rồi như đọc được cái ngập ngừng thất vọng của tôi, anh: “...Nhiều khi anh
thấy cũng bực quá, muốn nghỉ liền mà họ kêu quá chớ không anh nghỉ lâu rồi...”
Anh làm tôi có cảm giác như anh muốn đăng bài tôi lắm mà không được nên tôi
cũng cảm thấy an ủi mà ráng… viết tiếp.
Chúng tôi trao đổi emails, nói chuyện phone lai
rai, tuỳ hứng. Anh luôn trả lời liền mỗi lần tôi gửi anh. Cứ lâu lâu mở VOA lên
thấy anh đăng bài mới ai ai là tôi thấy vui vui vì biết anh còn đó, còn sáng
trưa chiều tối bên cái laptop và tôi có người bạn có đầy kinh nghiệm viết để
liên lạc nếu thấy thích. Nhiều lúc biết anh có quá nhiều bè bạn quá nên làm tôi
cũng ngại là anh không có cần bạn nữa như tôi cần. Tôi thường nghĩ, người có
nhiều bạn thì không có bạn thân vì cái nhu cầu cần có một người bạn thân sẽ
không còn cái hồn tự nhiên chờ gặp nhau của nó nữa; và người có nhiều bạn mà có
lỡ mất đi một người bạn thì chắc cũng chẳng hề gì. Nghĩ vậy, nên tôi cũng không
mong ở anh một sự chờ đợi gì ở tôi hết. Bao giờ tôi cũng còn có chút ám ảnh đó,
chút ngăn cách đó khi nghĩ tới sự thân tình, nếu có, giữa anh và tôi.
Có lần buồn chán sao đó (mà anh ít khi giải thích
cho tôi), anh nói anh muốn “chết quách đi cho nó rồi!” Tôi rủ anh đợi chừng vài
năm nữa rồi hai anh em mình mang chai rượu mạnh ra bờ đá New York “chơi”, nghe
nói nó vừa cao vừa đẹp nữa và bảo đảm trăm phần trăm thành công! Anh im im, chắc
anh nghĩ tôi cũng chỉ có nói giỡn.
Đã biết bao lần chúng tôi hẹn nhau bên hai ly cà
phê Starbucks. Lần cuối cách đây hơn mấy tháng khi tôi nói “ tưởng anh đang bệnh
nặng, em sang thăm anh”. Giờ anh đã ngã bệnh nặng thật mà tôi cũng chưa có ý
sang thăm. Tôi cũng vẫn mải mê chạy theo những bài viết của tôi để sớm hoàn
thành cuốn sách tùy bút / tự truyện kỷ niệm đầu tiên của đời mình. Dẫu mình có
ra đi nhưng những suy nghĩ của mình còn đó mãi, nghĩ vậy tôi thấy cũng vui vui
khi viết. Và cũng do đó, viết sao cho chính mình không thấy ngượng, không thấy
dối, không thấy nợ ai điều gì thì chừng đó tôi mới thấy vừa lòng. Ai khác muốn
nghĩ sao thì là quyền của họ, tôi không cản được…
Nhớ ngày kia tôi bắt đầu cầm đại cây bút trên
Facebook. Tôi viết hăng lắm, viết mỗi tuần có khi 4 bài, vừa tùy bút, vừa tự sự,
vừa truyện ngắn. Lỗi chánh tả thì tùm lum nhưng tôi không ngại vì sau vài năm
chúng sẽ hết; tôi nghĩ cái quan trọng của một người viết là ở ý tưởng và cách
diễn đạt.Tôi có linh tính anh đã đọc hết mọi bài viết của tôi dù tôi không bao
giờ hỏi. Có bài tôi gửi thẳng email mà anh thấy thích thì anh nói để anh gửi
cho VOA coi thử, tôi cản vì không muốn chuyện từ chối cũ tái bản nữa - vả lại
tôi cũng không tin cái thẩm quyền xét duyệt văn chương tùy tiện của họ dù đúng
là những bài đầu của tôi có kém thật. Có bài nào thấy thích thì anh khen “Được
lắm!” Được có nghĩa là mới ...tạm tạm thôi - tôi nghĩ bụng vì biết tánh anh ít
nói thẳng. Anh kín và kỷ luật lắm. Anh không bao giờ tự cho ý kiến chỉ trừ khi
tôi hỏi. Hình như ai muốn nhờ anh nhận định văn người ta thì anh...sợ lắm thì
phải! Rồi mãi mấy bài sau này, anh tự nhiên nói dù tôi không hỏi: “ Em viết tới
lắm!”. Tới chắc có nghĩa là... kha khá, tôi trừ bì 50 phần trăm nhưng trong bụng
cũng thấy mừng rơn.
Nhớ có vài lần anh...xổ chuồng liều mạng ý kiến
lung tung với tôi. Lần đầu khi anh nghe tôi nói có nhà văn nữ nọ chê bài viết của
tôi “không có văn chương”. Tuy trên mạng nhưng tôi biết là anh đang giận, anh tự
nói trỗng trỗng một mình như anh đang ...chửi thề vậy. Chắc anh giận sao mấy
con gà nòi văn chương mang cựa sắt kia dám tới mổ rụng lông con gà tre tuy hơi
háo thắng nhưng cựa còn có chút xíu kia của anh! Tôi đọc email anh mà giống như
tai đang nghe miệng anh lấp bấp cái gì như là “ Hoa hòe...hoa huệ
mà...mà...mà... Em hiểu ý anh không?” Anh có giận lắm là tới chừng đó, vẫn
không nói đụng tới tên ai hết! Lần thứ hai, tôi nghe anh nói trên phone đích
danh một nhà văn lớn và bảo rằng văn ông ta “lành quá, lành đến mức không có gì
đáng để đọc!” Chưa hết, còn một anh ý kiến lung tung nữa, là lần anh nói nhóm
văn hào nổi tiếng kia: “Thiệt ra anh đâu có thích văn chương họ đâu. Nói em, em
đừng có nói ai là anh nói nghen Khuê...” Những lần nghe anh tâm sự mạnh miệng
như vậy tôi rất khoái vì biết chúng rất hiếm ở anh.
Mỗi lần lỡ miệng như vậy, tôi có thể tưởng tượng
ra, chắc anh bối rối với lương tâm và kỷ luật “không chê ai” lâu năm của anh lắm.
Theo chút kinh nghiệm nhỏ của tôi. Tôi thấy hình như có hai loại nhà văn: loại
một thì rất ít khi mở miệng chê văn ai dưới mọi hình thức; loại hai sẵn sang
khuyên nhủ, dạy dỗ, phê bình hứ hé văn người khác. Dù cả hai loại, loại nào
cũng cùng thấy văn mình là hay chớ không có khác biệt (văn mình vợ người mà!).
Tôi nhớ hoài cái bài học đầu tiên mà anh đã dạy là
tôi ráng đừng có xài nhiều chữ tĩnh từ để mô tả. Anh nói tránh viết “cô đẹp tuyệt
vời, cô đẹp chim sa cá lặn” mà phải viết ra cô đẹp ra làm sao, đẹp chỗ nào,
cong, tròn, thon, gọn, sexy ở đâu, đẹp nơi nào, đẹp ở khoảnh khắc nào...thì người
ta mới thấy được cái đẹp cô nó gợn sóng ra sao... Với tôi, ấy là một bài học mà
học hoài cũng không thuộc! Cũng trong lần ấy, anh dạy tôi phải ráng giữ cái
phong cách rất riêng biệt của mình, tôi nhớ câu anh nói, đại khái: Khuê có cá
tính rất Khuê, ấy là một cái điểm hay, nó hiện ra rất rõ, nó không thể nhầm lẫn
với ai khác được, đừng có ráng bỏ cái phong cách đó mà không còn là cái gì hết.
Lần ấy, những lời dạy của anh làm tôi vui cả đêm, tôi ôm lấy trăn trở chữ nghĩa
của mình mà ngủ một giấc thật ngon.
Lan man kể lại vài kỷ niệm với anh mà có lúc tôi vẫn
tưởng là anh còn đó, còn cho tôi gửi anh email nữa. Anh chưa ra đi mà sao tôi
có cảm giác như anh đã ra đi, anh đã bỏ cuộc chơi này.. Mà nói là cuộc chơi chớ
có gì chơi. Nợ cơm gạo mang trên vai với bóng dáng vợ với bầy con nhỏ thì đố
tay nào dám chơi cho ra chơi!
Gần 50 năm với nghề viết, có lúc tôi thấy anh như
hình ảnh ông lái đò, cả đời đưa đò: ai qua, ai lại thì mặc ai, ngày mai ông
cũng dậy sớm khi gà gáy để mò mẫm theo con đường mòn ấy ra bến đò đưa khách; rồi
ngày kia khi tuổi già sức yếu, ông ngã xuống trên chính con đò thân yêu ấy cũng
trên giữa giòng sông quen thuộc ấy. Người ta nói ông chết. Tôi nói ông đã ở lại
mãi với bến đò, với giòng sông.
Có lúc tôi thấy anh như một gã nông phu nghèo, cả đời
chăm bón thửa ruộng già, cày tới cày lui mãi dù cho ai ai có người còn, người
đi xa chòm xóm. Rồi ngày kia ông nằm xuống cũng ngay trên cái thửa ruộng nghèo
vì kiệt sức. Thân ông chỉ làm màu mỡ thêm cho ruộng lúa, đất với người không
lìa...
Anh chưa ra đi, anh vẫn còn đây và chắc sẽ đọc được
bài viết này của tôi. Mong rằng anh không thấy tôi viết quá lời nhất là khi tôi
kể lại vài kỷ niệm phát biểu ý kiến linh tinh của anh về văn học. Chắc giờ này,
anh đã chịu buông tay ra với nhiều thứ. Buông vợ, buông con, buông cháu, buông
cây bút, buông thanh danh, buông tài năng, buông thân xác… Tôi không dám nói tiếng
chia buồn cùng gia đình anh vì biết chia là chia làm sao, nhận là nhận kiểu
nào. Tôi chỉ biết im lặng mà nghĩ tới anh, tới vợ con anh. Chị cũng đâu còn khỏe,
cũng èo èo y như kiểu sức khỏe của tôi lúc này. Tối tối giờ này chắc chị phải
vào phòng chị lo máy móc, lo thay bao, lo móc dây, lo sức khoẻ của chị, phải bỏ
anh một mình cho con cháu hay một bà y tá kềnh càng nào đó lo. Không gian trong
nhà anh chắc ảm đạm lắm. Khuôn mặt gầy đi của anh với hai cái tay dài thòng ra
cựa cọ chắc như sẵn sàng chờ cho ai đó nắm lấy. Cặp mắt yếu ớt ấy của anh chắc
dễ làm cho người ta sợ hãi, sợ bị liên lụy lắm... Tình bạn tôi với anh như những
đôi đũa lệch, nhưng cùng nhau gắp những món ăn văn chương trên cùng mâm: anh gắp
đĩa hoa có món ngon vật lạ, tôi gắp đĩa đất với rau đậu cũng xong. Giờ chắc anh
sẽ nằm xuống trước, mai tới tôi.
Viết về anh cũng như tôi đang nhớ tới những kỷ niệm
đầu tiên của tôi với cây bút. Bài viết ngắn này cũng ngắn ngủi như mối giao
tình (chưa hề gặp mặt nhau) của hai anh em mình...
Quán Starbucks ngay đầu đường nhà em sao buồn quá từ
ngày biết anh mang bạo bệnh…
Đoàn Quang Khuê