Sài Gòn – Cuộc đời mới (tiếp theo)
Cha tôi mất, để lại trên đời người vợ trẻ và năm đứa con thơ. Con trai lớn 11 tuổi và con trai út mới lên 4. Mẹ tôi suốt mười mấy năm lấy chồng chỉ ở nhà lo nội trợ, bây giờ mới thấy thực sự khó khăn. Cái bằng “diplome” duy nhất của mẹ đã bị cha đốt trong một lần nóng giận, nếu còn thì nó hữu ích cho mẹ biết bao!
Việc đầu tiên mẹ nghĩ ra là bán căn nhà Trương Minh Giảng để trả hết số nợ cho cha. Sau đó mua lại một căn nhà nhỏ có cái gác trong hẻm đường Trần Quang Diệu. Anh cả tôi đã vào đệ thất, chị tôi lớp nhì, tôi lớp tư, em gái tôi cũng bắt đầu học lớp năm. Ba chị em chúng tôi có thể đi bộ đến trường Trương Minh Giảng không xa lắm. Mẹ tôi đã cho dì Châu về quê.
Thời gian này mẹ làm đủ các công việc bà có thể để tiếp tục nuôi chúng tôi ăn học. Với vốn tiếng Pháp có sẵn, mẹ được bạn của cha xin cho dạy Pháp văn ở vài trường tư thục. Lúc rảnh mẹ đan thuê cho người lấy mối bán. Mẹ đan rất khéo, chỉ cần nhìn mấy mẫu áo trong sách là mẹ có thể đan giống như đúc. Ngoài ra mẹ vẫn được lãnh lương hưu của cha, hằng tháng năm mẹ con chúng tôi (không có anh cả) cùng đi trên một chiếc xe xích lô máy đến kho bạc trên đường Hàm Nghi lãnh tiền. Sau đó ghé Chợ Cũ mua vịt quay bánh mì, ra ghế đá bến Bạch Đằng ngồi hóng mát. Trong khi chúng tôi vô tư cười nói ăn uống, mẹ chỉ nhìn xa xăm ra dòng nước tĩnh lặng. Không biết mẹ nghĩ gì?
Mẹ tôi thuê một chị người Quảng Ngãi vào giúp việc thay dì Châu. Chị Tám còn trẻ, thật thà dễ thương. Chị nấu ăn không ngon, nhưng bù lại làm việc rất giỏi. Chị quý trọng mẹ và thương anh em chúng tôi lắm. Ở nhà chúng tôi vài năm, chị dẫn về giới thiệu với mẹ tôi một anh cùng quê. Sau đó chị xin mẹ tôi cho đi lấy chồng. Mẹ tôi đứng ra lo đám cưới cho hai người và tặng chị ít nữ trang làm vốn. Ngày chị Tám xách vali theo chồng, chị quỳ lạy mẹ tôi khóc như mưa rồi ôm từ biệt chúng tôi làm tôi cũng mũi lòng lây.
Chị Tám đi rồi, mẹ tôi phải tìm một người giúp việc khác. Lần này là một bà lớn tuổi cũng người Quảng Ngãi, chúng tôi gọi là bà Hai. Bà Hai chậm chạp và nấu ăn còn tệ hơn chị Tám. Ngày nào bà cũng cho chúng tôi ăn sườn heo, hết sườn heo nướng mặn đến sườn heo kho mặn, lại còn canh sườn heo nữa chứ! Chắc bà Hai chỉ biết làm một món, hoặc là bà thích ăn món này nên bắt chúng tôi ăn theo???
Chúng tôi ngày càng lớn, chi tiêu càng nhiều. Mẹ quyết định ra Phan Thiết bán căn nhà kỷ niệm của cha để lại. Vậy là hết rồi những mùa Hè được ra Phan Thiết vui chơi tắm biển!
Khi trở vào Sài Gòn, mẹ bán căn nhà Trần Quang Diệu để mua một nhà khác trên đường Bạch Đằng-Gia Định. Lúc này chúng tôi đã đủ lớn nên mẹ cho bà Hai nghỉ việc. Chúng tôi chia tay bà Hai, đồng thời vĩnh viễn chia tay món sườn heo mặn lè của bà.
Mẹ nghe lời khuyên của bạn bè ráng sử dụng vốn học vấn của mình để tìm một việc làm nơi công sở cho đỡ vất vả. Nhưng mẹ không có một mảnh bằng trong tay, đành phải học lại từ đầu chương trình tiếng Việt ở nhà với anh tôi. Ngày anh chở mẹ đi thi Tiểu Học, chúng tôi đều hồi hộp mong tin. Được đà, mẹ học tiếp lấy bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp (hết lớp đệ tứ hồi đó). Sau này khi đi làm, mẹ còn lấy thêm bằng chuyên môn địa chính và thi vào ngạch công chức nữa. Ý chí và nghị lực của mẹ tôi thật phi thường!
Tổng Nha Điền Địa là công sở đầu tiên mẹ đặt chân vào và gắn liền với sự nghiệp của mẹ cho đến năm 1975. Mẹ đã rất tươi tắn, yêu đời, nhưng không hiểu sao mẹ vẫn chưa đi bước nữa? Mẹ có một số cậu bạn trong sở rất tốt, thường đến làm giúp chúng tôi việc nhà, chở chúng tôi đi ăn đi chơi, nhưng tình cảm của mẹ dành cho họ chỉ dừng lại ở ranh giới tình bạn. Rồi mấy cậu bạn của mẹ cũng lần lượt đi lấy vợ. Với năm đứa con bên cạnh, mẹ không dám lấy chồng vì sợ anh em chúng tôi sẽ khổ. Mẹ đã hy sinh cả tuổi xuân cho chồng con.
Cuộc sống của mẹ con chúng tôi lúc bấy giờ rất thoải mái vui vẻ. Mẹ chi tiêu tiết kiệm nhưng lo cho anh em chúng tôi đầy đủ. Hàng ngày mẹ đi làm bằng xe buýt, anh cả đã có chiếc Yamaha đi học trường Chu Văn An, chị tôi đến trường Mỹ Thuật Gia Định bằng Velosolex. Tôi vẫn xe đạp hồn nhiên đến trường Gia Long. Em gái tôi cũng đã lên đệ thất bằng tôi rồi (tôi phải mất 2 năm thi đệ thất). Thương mẹ, anh em chúng tôi đều cố gắng học giỏi cho mẹ vui. Mẹ tôi giáo dục con cái rất nghiêm khắc, không bao giờ có cử chỉ âu yếm hoặc biểu lộ tình yêu dành cho chúng tôi. Nên dù ít khi tâm sự với mẹ, như cách của em gái tôi, nhưng tôi luôn hãnh diện có được một người mẹ như vậy trong cuộc đời.
Tuy tính tình hiền lành nhưng tôi vì tật mê đọc truyện nên một lần đã làm anh tôi nổi cơn thịnh nộ. Anh tôi có một tủ sách truyện với nhiều cuốn hay, nhưng chúng tôi chỉ được mượn xem khi anh cho phép. Đó là một ngày lén khi anh đi học, tôi lấy cuốn “Lửa cháy thành Tây Đô” anh mới mua, đọc say sưa đến nỗi không để ý miếng giấy nhỏ trong đó rơi ra, miếng giấy làm dấu trang anh đang đọc. Dĩ nhiên khi đi học về anh biết ngay ai là thủ phạm. Tôi bị anh bắt quỳ gối và la cho một trận tơi bời. Chưa đã giận, anh còn thẳng tay xé luôn cuốn sách mới mua chưa đọc xong của mình. Tôi sợ hãi nhìn từng trang giấy bị xé đôi xé ba mà khóc thút thít. Sau đó tôi gom lại, sắp thứ tự số trang rồi lấy cơm cặm cụi dán từng trang một xéo lên xẹo xuống, để nó lên kệ đàng hoàng. Anh tôi thấy thương hại đứa em khờ nên bỏ qua, nhưng tôi không bao giờ dám tái phạm điều luật của anh nữa, bất kể là chuyện gì.
Tôi còn một tật mê xem phim, nói đúng ra cả năm anh em chúng tôi đều mê. Rạp Cao Đồng Hưng là địa chỉ quen thuộc anh em chúng tôi thường lui tới. Hồi đó tôi thích phim Ấn Độ lắm! Xem đến đoạn nào cảm động là tôi lại khóc tỉ tê, cứ như khi đọc truyện “Anh phải sống” hay “Đoạn tuyệt” vậy. Nhưng, người giàu tình cảm và dễ xúc động như tôi đâu có gì đáng xấu hổ phải không? Con gái mà...
Con gái 15, ở tuổi này tôi đã biết có người để ý theo đuôi mình mỗi chiều tan học rồi. Tôi nhớ mãi một anh chàng với chiếc mobilette xám, không biết ở đâu ra mà ngày ngày kiên nhẫn theo tôi suốt đường về nhà. Tôi thường đi học cùng với Lan Hương Vũ, thấy anh chàng này ngày nào cũng lẽo đẽo bên cạnh nên sau vài lần nó thấy kỳ bèn nhấn “pê đan” đạp thẳng, bỏ lại tôi lớ ngớ giữa đường thật là mắc cở. Một hôm, anh chàng (lấy hết can đảm) ném cái mũ vào giỏ xe của tôi. Về nhà tôi tò mò mở xem thử, có một tờ giấy ghi hàng chữ tôi khó mà quên: “Bé ơi! Bé tên gì? Cho anh làm quen với”. Một cảm giác là lạ chợt len lỏi vào lòng, tôi thấy thích thích nhưng sợ mẹ và anh biết nên đã quăng luôn cái mũ lẫn tờ giấy vào thùng rác.
Rồi cái điệp khúc: “tan trường, tan trường” quen thuộc cho đến cuối năm lớp đệ tứ. Nghỉ Hè, tôi không còn gặp anh chàng mobilette xám ấy, tờ giấy có chữ Bé ơi là tín hiệu duy nhất tôi nhận được từ anh ta. Cũng từ dạo đó tôi đã bắt đầu mơ mộng và không còn chăm chỉ học hành như trước nữa...
Kim Trâm
(Trích phần 2 của tập hồi ký)