NHỮNG NGƯỜI VỢ LÍNH THỜI LỬA BINH - PHẠM PHONG DINH
23 Tháng Mười Một 201312:00 SA(Xem: 12561)
Chị Thàng đã chọn một cái chết thật dũng
cảm và cao cả. Ôm hai đứa con vào lòng, chị Thàng bình
tĩnh chờ cho những tên Việt cộng nhào vào, chị rút
chốt.
NHỮNG NGƯỜI VỢ LÍNH THỜI LỬA BINH
Trong cuộc chiến tranh bảo quốc chống ngăn cơn sóng đỏ
của cộng sản quốc tế với đạo quân tay sai tiền kích của
chúng là binh đội cộng sản Bắc Việt và Việt cộng miền
Nam, khuôn mặt của những người vợ lính dường như đã rất
mờ nhạt đằng sau chất muối trắng đẫm đầy trên lưng áo
của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng
chiến tranh càng nặng độ thì hình ảnh những người chị vô
danh ấy đã dần hiện rõ trong một ánh sáng diệu kỳ, mà
chúng ta chỉ có thể cúi người thật sâu xuống để tôn vinh
và ngợi ca. Đó là những người lính không có vũ khí,
không số quân, không tiền lương, không cả lương thực
hành quân, nhưng là những người lính tỏa hào quang chói
sáng nhất trong những hoàn cảnh nghiệt ngã thắt ngặt
nhất, mà đã góp phần đem chiến thắng quyết định trên
chiến trường.
Đó là NHỮNG NGƯỜI VỢ LÍNH, những người chị cao cả mà đã
cùng chồng dấn mình trong cơn bão lửa của chiến tranh,
cùng chia sẻ cái chết, có khi các chị hy sinh trước cả
các anh. Những cái chết anh dũng trong âm thầm đó nào ai
biết được. Không có Lá Quốc Kỳ Vàng Ba Sọc Đỏ phủ trên
chiếc quan tài được ghép thành từ những mảnh ván đơn sơ,
không có chiếc huy chương Anh Dũng Bội Tinh Với Nhành
Dương Liễu, không cả tiếng kèn truy điệu ai oán.
Những người lính đóng đồn cùng vợ con của các anh cùng
sống chui rúc trong những cái hầm tối tăm ngột ngạt,
dưới những những cái hố nhỏ ngập đầy nước. Những người
lính nghèo nàn, rách rưới và tội nghiệp co ro ôm súng
gác giặc và đánh giặc trong cái lạnh xé thịt của đêm. Ăn
uống thì đạm bạc đến không có gì đạm bạc hơn được nữa.
Một cái nồi cơm méo mó, với vài con cá nhỏ kho trong
chất nước mắm hạng bét mặn chát những muối, một dĩa rau
muống ruộng hay rau đắng xơ xác, mà có thể tìm thấy mọc
đầy khắp những vũng nước đọng trên những cánh dồng lầy.
Cả gia đình người lính Địa Phương Quân hay Nghĩa Quân
quây quần chung quanh mâm cơm đơn sơ đó chấp nhận sự
thua thiệt của mình. Không than thở, không ta thán và
vui lòng với niềm hạnh phúc mong manh của mình. Một năm
365 ngày, mười năm, hai mươi năm, cho đến ngày cuối cùng
của cuộc chiến, hơn bảy ngàn đêm những người chị ấy chưa
từng bao giờ biết ngủ yên giấc là gì. Chị thao thức đến
nửa khuya, lắng nghe tiếng đại bác vọng ì ầm về thành
phố từ phía mặt trận có anh ở đó, chị thổn thức nguyện
cầu cho anh được bình yên, để anh có một ngày được về
với chị và con, dù chỉ là những khoảnh khắc về phép thật
quá hiếm hoi. Hay nếu chị cùng chồng trấn thủ lưu đồn,
anh chiến đấu cơ cực như thế nào, anh ăn ngủ chập chờn
ra sao, thì chị cũng cơ cực và chập chờn ngần ấy.
CHỊ PHẠM THỊ THÀNG, NỮ ANH THƯ ĐẤT GÒ CÔNG
Người vợ lính ở tiền đồn cáng đáng cùng một lúc hai công
việc, mà công việc nào cũng biểu hiện hình ảnh và đức
tính cao quí của người phụ nữ Việt Nam.
Thứ nhất, đức tính đảm đang tận tụy của người vợ, người
đàn bà Việt Nam quán xuyến chuyện gia đình, trông nom
dạy dỗ con cái và nấu nướng những bữa ăn.
Thứ hai, khi quân giặc đã thấy dẫy đầy ngoài những vòng
rào kẽm gai, thì những người nữ chiến sĩ chưa từng một
ngày được huấn luyện ở quân trường ấy đã chiến đấu như
bất cứ người lính chuyên nghiệp nào. Chị cũng biết dùng
máy truyền tin gọi Pháo Binh, chị biết sử dụng thành
thạo mọi loại súng trong đồn có, chị ném lựu đạn ác liệt
và chính xác, tấm thân nhỏ bé của chị oằn nặng dưới
những thùng đạn tiếp tế. Và chị cũng sẵn sàng nằm gói
thân thiên thu trong chiếc poncho, để tên chị vĩnh viễn
đi vào lịch sử. Chúng ta có nhiều người chị như vậy lắm.
Ở ngay tại đồng Giồng Đình này thì ít nhất cũng có những
chị Phạm Thị Thàng và Trần Thị Tâm.
Đêm 2.10.1965, với âm mưu làm xáo trộn hệ thống tiếp
viện của những đơn vị diện địa trong khu vực Tiền Giang
để dễ dàng thanh toán mục tiêu chính nào đó, chỉ trong
một đêm Việt cộng đã tổ chức tấn công 11 vị trí của quân
ta với quân số thật lớn. Đồn Giồng Đình thuộc tỉnh Gò
Công cũng bị áp lực rất nặng của quân địch khi hứng chịu
cuộc cường kích của 300 lính cộng.
Đây là một lực lượng chính qui Việt cộng với hỏa lực rất
mạnh, chúng quyết tâm hủy diệt đồn Giồng Đình nhỏ bé, mà
chỉ có vỏn vẹn một Trung Đội Nghĩa Quân 24 tay súng trấn
giữ. Là những con ác quỷ hung tợn và thâm độc, lực lượng
cộng quân đã bố trí ở hướng có nhiều nhà dân chúng, vừa
làm bia đỡ đạn cho chúng, vừa ngoác miệng tuyên truyền
gây căm thù nếu quân ta bắn trả. Người dân, nhất là
những ông bà lão già, đàn bà và trẻ con luôn luôn là
những cái bia sống đỡ đạn cho bọn giặc hèn nhát gọi là
những “người giải phóng”. Với quân số ấy, vũ khí hùng
hậu ấy mà chúng cũng ngán ngại 24 chiến sĩ Nghĩa Quân
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đến nỗi phải cậy nhờ đến máu
thịt của đồng bào để có cơ may thủ thắng, thì còn từ ngữ
nào, hình dung từ tồi tệ nhất nào để diễn tả bộ mặt cùng
hung cực ác rất đốn mạt của cộng sản nữa không.
Đúng 2 giờ đêm, quân cộng dưới quyền chỉ huy trực tiếp
của Thượng Úy Sáu Bích, đã mở cuộc tấn công từ hai mặt
đánh vào Giồng Đình, với sự tin tưởng điên rồ, rằng
chúng sẽ thanh toán cái tiền đồn nhỏ xíu này trong một
thời gian ngắn. Chiến thắng dường như là chắc chắn, vì
với quân số mười lần hơn, mười đè một, dẫu chúng có thí
chín tên thì cũng có thể hạ gục được một chiến sĩ Nghĩa
Quân Giồng Đình.
Trên lý thuyết, thì giả thiết đó dường như đúng. Nhưng
trên trận địa, người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
luôn luôn thể hiện những chuyện phi thường, mà rất hằng
hiện hữu trên bất kỳ chiến trường nào, quả thật cộng
quân đã chọn lầm mục tiêu. Sau ba đợt tấn công hung bạo,
tưởng gạch đá cũng phải nát thành tro, đã chiếm được 2
trong số 3 lô cốt trong đồn, cộng quân vẫn phải rút trở
ra. Cuộc tấn công lần thứ tư được hối hả tổ chức và thực
hiện, với quyết tâm san bằng Giồng Đình. Nhưng liệu 24
chiến sĩ Nghĩa Quân có cho phép điều đó không. Câu trả
lời là không, không chỉ đến từ ý chí hừng hực tử thủ của
các anh, mà còn là từ đôi bàn tay yếu mềm của những
người vợ lính đang sống cùng với chồng con của các chị
trong đồn. Phải, cuộc chiến thắng cuối cùng của Nghĩa
Quân đồn Giồng Đình sẽ không thể thực hiện được, nếu
không có sự góp sức chiến đấu của những người chị này.
Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Không phải chỉ những
người chị dũng cảm ấy không thôi, mà cả trẻ con cũng
đánh.
Đồn Giồng Đình nằm ở một vùng thôn ấp hẻo lánh trong
tỉnh Gò Công, do một Trung Đội Nghĩa Quân trấn giữ, với
thành phần chỉ huy gồm có anh Nguyễn Văn Thi, Đồn
Trưởng, anh Lê Văn Hùng, Đồn Phó và anh Lê Văn Mẫn, âm
thoại viên. Trấn thủ một vị trí hung hiểm như vậy, không
chỉ có 24 tay súng mà đã đủ, nên tất cả những người vợ
lính trong đồn đều đã được chồng huấn luyện sử dụng
thành thạo những loại máy móc truyền tin và vũ khí. Như
vậy số tay súng đã được nhân lên gấp đôi.
Trong nhiều trường hợp, đến những giây phút tử sinh
tuyệt vọng nhất, những em bé cũng tham chiến, khi các em
gan dạ bò dưới lưới đạn của giặc để đem tiếp tế đến cho
cha và mẹ. Không ai buộc những người vợ lính, con lính
cầm súng đánh địch. Nhưng chính những người vợ lính, con
lính ấy làm sao có thể ẩn náu tìm cái sống trong khi
chồng và cha của họ sắp ngã gục ngoài chiến hào.
Khi chấm dứt đợt tấn công thứ ba, địch tạm rút để tái tổ
chức tấn công, thì tình trạng bên trong đồn Giồng Đình
đã khá là bi đát. Đã có đến 16 chiến sĩ Nghĩa Quân bị
thương, chỉ còn 8 Nghĩa Quân còn chiến đấu được. Âm
thoại viên Lê Văn Mẫn bị thương ở đầu trong lúc anh đang
cố gắng gọi máy về Tiểu Khu.
Anh Mẫn gục xuống buông chiếc ống liên hợp. Chị Trần Thị
Tâm, vợ anh Mẫn vội đặt con bên cạnh anh và chộp lấy ống
liên hợp. Liên lạc được tiếp nối, chị Tâm nghiễm nhiên
trở thành một âm thoại viên, và là cứu tinh của đồn
Giồng Đình. Ở một góc đồn, anh Lê Văn Hùng và chị Phạm
Thị Thàng, vợ anh, và hai đứa con nhỏ đang phải đối đầu
với một lực lượng quá đông của địch.
Nhìn ra ngoài hàng rào kẽm gai, giặc đã đã tràn vào đen
ngòm như những con quái vật hung hãn. Anh Hùng chỉ còn
trong tay cây tiểu liên Thompson và 16 trái lựu đạn, chị
Thàng có một khẩu Carbine. Thật tội nghiệp cho hai đứa
nhỏ, sức ép của bộc phá và súng SKZ của Việt cộng bắn
vào quá gần, các em không còn khóc được nữa mà đã nằm
bất động dưới chân hai vợ chồng anh Hùng. Chị Thàng thì
thào:
- Chúng đang phá lô cốt chánh, để em bắn yểm trợ anh bò
về giữ. Lô cốt mất là đồn mình mất, em nằm tại đây giữ
mấy đứa nhỏ, nếu chúng tràn vào thì… thì… em ném lựu đạn
ra, có thể cầm cự đến sáng được.
Anh Hùng ngần ngừ, anh rưng rưng nhìn vợ con, rồi nhìn
về phía lô cốt. Tiếng súng từ lô cốt cuối cùng đã yếu ớt
lắm, có lẽ mấy Nghĩa Quân cố thủ ở đó đã kiệt quệ quá
rồi. Số phận của anh Thi Đồn Trưởng thế nào. Anh Hùng
lắc đầu không dám nghĩ đến chuyện xấu nhất đã xảy ra cho
đồng đội. Nhưng nếu Việt cộng chiếm được lô cốt ấy, thì
coi như đánh dấu chấm hết cuộc kháng cự. Anh Hùng phải
quyết định, dù quyết định đó quá đau xót, là bỏ lại vợ
con, mà trong lúc quân giặc đã hò hét ngay sát bên rồi:
- Anh chạy theo giao thông hào, em bắn yểm trợ cho anh.
Anh Hùng nhìn chị Thàng và hai đứa nhỏ lần cuối cùng.
Trong lòng anh quặn lên một nỗi bi thương. Trời ơi, vợ
con mình. Hai đứa nhỏ chẳng biết còn sống hay đã chết.
Anh phóng mình xuống hào chạy băng băng về hướng lô cốt.
Cây Carbine trên tay chị Thàng run lên, những tràng đạn
rải vào những cái bóng đen đã quá gần. Anh Hùng đã bò
vào được lô cốt, giữa những tiếng đạn nổ rền trời. May
quá, anh Thi trưởng đồn vẫn nguyên vẹn. Súng SKZ của
địch thụt ầm ầm, nhưng anh Hùng vẫn có thể nghe được
từng tiếng lựu đạn nổ từ phía công sự của chị Thàng.
Nước mắt anh rơi lả chả trên nền đất. Anh đã đếm được
đến con số 15, mà tiếng súng của địch vẫn nỗ dòn dã ngay
sát tuyến phòng thủ của chị Thàng.
Anh biết giây phút định mệnh thảm thiết nhất cũng đã
điểm. Chị Thàng sẽ làm gì với quả lựu đạn thứ 16. Anh
Hùng đau đớn rên lên trong lòng : “Chỉ còn một trái lựu
đạn nữa thôi, làm sao em cầm cự được đến sáng”. Chính
anh cũng không có được một giây để nghĩ tiếp cái gì sẽ
xảy đến cho vợ con mình, vì dưới chân lô cốt anh tử thủ
đã đông nghẹt quân giặc. Đủ mọi thứ loại súng nỗ chát
chúa khắp đồn, anh Hùng không biết chắc là mình đã nghe
được tiếng nổ của trái lựu đạn thứ 16 chưa.
Cuộc chiến đấu đã kéo dài được một tiếng đồng hồ, quân
địch đã phá được lớp kẽm gai cuối cùng và sắp tràn ngập
đồn Giồng Đình. Lúc đó là 3 giờ sáng rạng ngày
2.10.1965. Tình hình đã quá nguy ngập. Anh Nguyễn Văn
Thi, Đồn Trưởng, quyết định thà hy sinh còn hơn là để
đồn lọt vào tay địch. Anh giật lấy ống liên hợp từ tay
chị Tâm và thét lớn:
- Hãy bắn lên đầu chúng tôi ! Bắn vào giữa đồn… Hai lô
cốt thứ nhứt và thứ hai đã thất thủ. Tụi tui ở lô cốt
thứ ba. Hãy bắn lên trên đầu chúng tôi, Việt cộng đông
lắm. Bắn đi… bắn…
Sau tiếng gọi thống thiết của người Đồn Trưởng, Pháo
Binh Tiểu Khu Gò Công lập tức bắn vào đồn với loại đầu
nổ cao. Loại đạn đặc biệt này nổ khi cách mặt đất chừng
4, 5 thước, rất hữu hiệu tiêu diệt biển người địch, quân
ta núp trong lô cốt vẫn có hy vọng sống sót. Những cái
bóng đen nhập nhoạng dưới ánh sáng hỏa châu văng tung
tóe, tiếng kêu dẫy chết của chúng như tiếng rú của quỷ.
Hàng tràng đạn nổ cao vẫn dội ùng oàng xuống đồn. Chiếc
lô cốt cuối cùng vẫn đứng vững, anh Thi cùng anh Hùng từ
trong những lổ châu mai bắn tỉa từng tên địch. Giữa
tiếng súng nổ dòn, dường như người ta nghe âm thanh rì
rì của máy bay. Không Quân Việt Nam đã tới. Những chiếc
A1 khu trục cơ đã xuất kích. Đến đây thì “Thượng Úy”
Việt cộng Sáu Bích, tên chỉ huy trận đánh đã có thể nhận
thấy rằng, cuộc tấn công đồn Giồng Đình đã đánh dấu chấm
hết, với phần thắng nghiêng về phía Nghĩa Quân Việt Nam
Cộng Hòa. Lúc 4 giờ 30 sáng, chiến địa hoàn toàn im
tiếng súng. Quân địch đã kéo những xác chết và những tên
bị thương chạy trốn vào phía bóng tối.
Khi ánh hừng đông của một ngày mới đã lên, hai Đại Đội
Địa Phương Quân do chính Trung Tá Tiểu Khu Trưởng Gò
Công chỉ huy đã đến và tổ chức bung quân ra lục soát.
Quân cộng đã để lại trận địa 23 xác chết, ở giữa đồn có
6 xác khác nằm bên cạnh lô cốt thứ ba, nơi mà anh Đồn
Trưởng Thi, Đồn Phó Hùng và chị Tâm giữ máy truyền tin
đã kháng cự mãnh liệt, thà chết không hàng. Những tên
Việt cộng này mang trên mình rất nhiều lựu đạn và bộc
phá, chắc là chúng quyết thí mạng để phá cho bằng được ổ
kháng cự cuối cùng này.
Anh Thi và anh Hùng đã bắn địch theo lối xâu chéo, nghĩa
là bắn chéo góc với nhau tạo thành một xạ trường quét
gọn tất cả những tên cộng nào nằm trong đó. Ngày hôm
sau, một người thường dân bị Việt cộng bắt đi tải thương
lén trốn về được đã cho biết số bị thương của chúng chở
đầy sáu chiếc ghe tam bản. Một lính cộng may mắn bị
thương tên Dương Văn Thiều, 18 tuổi, sống sót và bị bắt
làm tù binh. Tại sao may mắn ? Vì nếu anh ta bị kéo đi
theo vào bưng biền, nếu không bị chết vì nhiễm trùng, bị
những quân y sĩ Việt cộng cưa cắt bằng những loại cưa và
đục của thợ mộc, thì cũng bị cấp chỉ huy ra lệnh mang
anh đi thủ tiêu. Đó là lý do giải thích tại sao sau ngày
30.4.1975, người dân Miền Nam hiếm thấy người thương phế
binh cộng sản trên đường phố.
Nhưng đối với anh Hùng, thì tất cả những gì mà Viêt cộng
đã trả giá cho cuộc tấn công không làm anh quan tâm.
Ngay khi tiếng súng vừa chấm dứt., quân cộng đã rút đi,
thì anh đã như một người điên lao mình ra chỗ chiến hào
mà chị Thàng đã một mình một súng trấn giữ ở đó, với một
niềm hy vọng mỏng manh, rằng đừng bao giờ trái lựu đạn
thứ 16 được rút chốt. Anh Hùng bò vào khúc hào mà anh đã
nuốt nước mắt chạy đi. Chị Thàng cùng hai đứa con của
anh nằm chết bên cạnh ba xác Việt cộng. Anh Hùng gục
xuống như thân cây chuối bị một nhát dao bén chém ngọt
làm đôi. Anh biết, nếu trái lựu đạn thứ 16 nổ thì chị
Thàng cũng đi vào cõi chết, vì chị Thàng sẽ không bao
giờ cho phép giặc bắt chị hoặc đạn của chúng bắn vào
người chị. Chị Thàng đã chọn một cái chết thật dũng cảm
và cao cả. Ôm hai đứa con vào lòng, chị Thàng bình tĩnh
chờ cho những tên Việt cộng nhào vào, chị rút chốt!
Tiếng nổ kinh thiên cùng với xác thịt và máu của người
nữ chiến sĩ đó đã được đánh đổi với ba mạng giặc. Anh
Hùng ôm xác vợ con vào lòng và gần như ngất xỉu. Nhưng
khi nhìn ra ngoài, những xác giặc thù nằm ngỗn ngang
khắp nơi, trong nỗi đau khổ tột cùng của mình, anh Hùng
thấy trong lòng dậy lên một niềm tự hào đến nghẹn ngào.
Sự hy sinh của chị Thàng đã cứu sống được tất cả những
thương binh Nghĩa Quân cùng vợ con các anh, nhưng trên
hết cứu sống chính sinh mạng của người chồng mà chị yêu
mến. Những viên đạn Carbine và 15 trái lựu đạn của chị
đã đóng góp vào sự tồn tại kỳ diệu của đồn Giồng Đình.
Một người lính chuyên nghiệp và thiện chiến nhất cũng
chỉ làm được đến ngần ấy. Nếu cái lô cốt thứ ba không
đứng vững, thì chắc chắn tất cả sinh mạng mấy mươi người
Nghĩa Quân và vợ con của đồng Giồng Đình đều sẽ chết
hết.
Anh Hùng ẳm chị Thàng ra ngoài, để trông thấy những
người còn sống, những người vợ lính khác đã gục đầu khóc
tiếc thương chị Thàng. Những nấm mộ đất được đắp vội với
ba tấm bia tang tóc. Một của chị Phạm Thị Thàng, và hai
kia của cháu Lê Văn Dũng và Lê Tấn Sỹ. Ôi, những người
vợ của lính trong thời lửa binh. Chị Phạm Thị Thàng, chị
Trần Thị Tâm, và nhiều người chị khác trên khắp nẽo
chiến trường, chị Thạch Thị Định, chị Bùi Thị Xiếu, chị
Am Reng.
Người lính của chúng ta, những công dân xếp hạng chót
nhất trong bậc thang xã hội, nhưng là những người hứng
chịu oan nghiệt trước nhất, là bức tường chắn cho sự an
toàn của hậu phương phồn thịnh và hạnh phúc. Trong đời
của các anh không có được một thứ ưu tiên vật chất nào
cả, ngoài cái ưu tiên phải hy sinh và chết. Có những
người lính từ Miền Tây ra tận miền hỏa tuyến hay trên
vùng cao nguyên sương mù Miền Trung, nhiều năm liền
không có lấy được một ngày phép về thăm gia đình. Nếu
anh may mắn, thật đau xót, quân thù bắn anh bị thương,
thì anh mới có cái diễm phúc được nắm trong tay tờ giấy
phép. Còn nếu sự gọi là may mắn đó đi xa hơn một bước,
anh chết, thì anh được phép dài hạn trở về và vĩnh viễn
được an nghỉ ở nơi đã sinh ra anh. Đầu năm 1972, trong
một trận đánh của Sư Đoàn 3 Bộ Binh tại khu vực Cồn Tiên
nằm sát phía Nam khu phi quân sự bên này bờ sông Bến
Hải, một tiểu đoàn sau nhiều ngày cố gắng đã không thể
chiếm được một cao điểm. Vị Tiểu Đoàn Trưởng gọi bốn
người lính gốc Miền Tây lên hứa sẽ cấp mỗi anh mười ngày
phép nếu các anh chiếm được ngọn đồi ấy. Bốn người tráng
sĩ Kinh Kha đã nai nịt tề chỉnh, mang thật nhiều lựu đạn
bò lên, mỗi người cầm một cây gậy ngắn dò đường. Đêm tối
như mực. Hễ chọt trúng cái lổ nào là thảy lựu đạn vô cái
lổ đó, vì ở đó chính là cái miệng hầm chốt của địch. Đến
sáng, bốn người dũng tướng vô danh đó đã reo hò trương
Cờ Vàng Việt Nam trên đỉnh cao điểm. Ôi, những ngày phép
đã trở thành một ân huệ chứ không phải là một quyền lợi
đương nhiên của những người lính trận.
Người vợ lính cùng chia sẻ với chồng những nỗi đắng cay
thiệt thòi đó, bằng tất cả sự câm nín nhẫn nhục và vui
lòng với những gì mình có. Một góc hầm tối tăm, một
chiếc ghế bố cũ, vài cái nồi, chảo nhem nhuốc, những cái
chén sành và những đôi đũa tre, cùng tiếng cười của lũ
trẻ thơ cũng đủ làm nên thành niềm hạnh phúc vĩ đại của
những người vợ lính. Chị Thàng đã chết đi, anh linh của
chị cùng hai cháu bé đã thăng thiên lên cõi vĩnh hằng,
nhưng những người còn sống cùng thời với chị, cho mãi
đến tận bây giờ và ngàn đời sau, dân tộc Việt Nam sẽ
không bao giờ quên tên chị. NGƯỜI CHỊ CAO CẢ PHẠM THỊ
THÀNG. Vì tên chị đã được trân trọng ghi chép vào những
trang bi tráng nhất của lịch sử dân tộc Việt Nam chống
Cộng sản quốc tế và Cộng sản Hà Nội, một lũ hung đồ diệt
chủng, diệt dân tộc gớm ghiếc nhất của thế kỷ thứ 20 và
của lịch sử hình thành nhân con người.
AMRENG, NGƯỜI NỮ CHIẾN SĨ CAO NGUYÊN
Quân cộng sản hành quân trên vùng cao nguyên thường
khinh rẻ và húng hiếp các sắc dân Thượng rất thậm tệ.
Chúng bắt trai tráng đi dân công, thậm chí cho bổ sung
vào những đơn vị Thượng cộng, người làng thì bị ép buộc
đóng góp lương thực, lúa gạo. Chúng dùng muối, là thứ
tối cần của người dân miền cao, để đổi chác một cách rất
bất lợi cho người Thượng. Người Thượng sống vất vả quanh
năm, chỉ trông cậy vào những mảnh đất rừng khai phá để
trồng trọt chút hoa màu hay trồng lúa rẫy, không đói đã
là may lắm rồi, có còn đâu dư dả để cung phụng cho bọn
Phỉ Cộng. Có nhiều trường hợp cả làng trong rừng sâu
chịu không nỗi cảnh áp bức, giết chóc, đã kéo nhau ra
quận hay tỉnh để xin nương náu với người Kinh.
Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã lập Bộ Phát Triễn Sắc Tộc
để giải quyết những vấn đề của người thiểu số. Hàng trăm
trại tiếp cư tị nạn cộng sản đã được thiết lập để đón
tiếp đồng bào Thượng và giúp đỡ đồng bào tạo dựng cuộc
sống mới. Đất canh tác được cấp phát vô điều kiện cho
đồng bào Thượng tị nạn cộng sản. Thông thường thì mỗi
gia đình thiên tai hay tị nạn đều được cấp phát 10 bao
xi măng và 20 tấm tôn để cất lại một căn nhà nhỏ.
Một nước nhỏ, nghèo là Việt Nam Cộng Hòa, quanh năm
chiến tranh, ngân khoản thiếu thốn, mà đã cắn răng gồng
gánh giúp đỡ hàng triệu người đồng bào bất hạnh của
mình. Không phải “Lá lành đùm lá rách nữa”, mà là “Lá
rách đùm lá nát”. Đã vậy mà thôi đâu, những làng định cư
nhỏ bé và nghèo nàn ấy vừa được dựng lên chưa được bao
lâu, thì Việt cộng đã tràn về đốt phá tan hoang. Những
chiếc lá rách nát lại cắn răng san sẻ cho nhau những gì
mình có. Dưới mắt cộng sản, thì những người dân chạy về
phía chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng Hòa xin được
che chở và giúp đỡ, đều mang cái tội tày trời là “dân
ngụy”, là “phản động”, dù có bắn bỏ hay đốt cháy nhà cửa
của họ cũng là chuyện trừng phạt đương nhiên của điều mà
chúng gọi là cuộc “cách mạng giải phóng”.
Với bản chất là một lũ cướp chuyên nghiệp và man rợ,
cộng sản Hà Nội hiện nay không bao giờ từ bỏ cơ hội
chiếm đoạt đất khẩn hoang của người Thượng.
Chúng chờ cho các sắc tộc Thượng khai phá rừng tạo dựng
nên thành những vùng sinh sống màu mỡ trên những tỉnh
cao nguyên, là chúng kiếm chuyện cứớp đoạt một cách
trắng trợn ngay, nại lý do đất đai thuộc về quyền quản
lý của nhà nước, người dân không có quyền sỡ hữu. Mặt
khác, chúng áp dụng hình thái thực dân, cho di chuyển
dân Kinh gốc Miền Bắc vào ở trên đất mà người Thượng đã
sinh sống từ ngàn năm, lấn dần, lấn dần, người Thượng
kém thế phải lùi mãi vào tận rừng sâu,ở chỗ chỉ có nước
độc, bệnh hoạn và đói kém. Đã thế mà cộng sản nào chịu
buông tha, chúng vẫn cứ cho phép những người gọi là di
dân tràn vào như vết dầu loang, để đồng bào Thượng chịu
không nỗi phải chạy qua đất Miên xin tị nạn. Đây là một
tiến trình có chủ mưu, có sách lược để tiêu diệt dần mòn
dân Thượng. Chúng ta có thể thấy ngay rằng, những người
di dân Miền Bắc đã không biết rằng mình đang được rải ra
làm phên dậu phòng thủ dọc theo dãy biên thùy Trường
Sơn, án ngữ con đường đổ xuống đồng bằng duyên hải, nếu
có một đạo quân đánh sang từ đất Lào và Miên. Cũng tốt,
cái phên dậu đó giống như con dao hai lưỡi, rồi cũng có
một ngày những đồng bào di dân nghèo Miền Bắc đó sẽ trở
thành một lực lượng mạnh có khả năng thọc sâu mũi dao
vào tận tim của bọn cộng sản để tiễn chúng xuống tận đáy
địa ngục.
Tức nước thì có lúc cũng phải vỡ bờ. Ngày 12.4.2004,
nhiều chục ngàn dân Thượng của các sắc tộc sinh sống
trong những tỉnh Kontum, Pleiku, Darlac, Phước Long,
Bình Long đã kéo vào những thành phố tỉnh lỵ để hình
thành một cuộc phản kháng bất bạo động, phản đối cộng
sản Hà Nội đàn áp đức tin đạo Tin Lành, chiếm đoạt đất
đai và quyền sống căn bản của người Thượng. Dưới mắt
cộng sản, dù chỉ là một biểu hiện phản đối nhỏ cũng đã
được gán cho cái tội phản động, tội chết, chứ đừng nói
gì đến những cuộc tập trung đông đảo như vậy. Hàng sư
đoàn bộ binh của cộng sản đã được điều động lên phối hợp
với công an đàn áp dã man cuộc tập trung. Hàng trăm đồng
bào Thượng đã bị bắn chết, những người bị thương bị đem
vào cô lập trong bệnh viện nhà nước, không ai có thể vào
thăm viếng, kể cả những phóng viên và những nhà ngoại
giao nước ngoài.
Ngày đầu xuân Tân Hợi 1971, trên miền cao nguyên của
Quân Khu II, trong chiến dịch quân sự mà cộng sản gọi là
Cao Điểm Tân Hợi nhằm quấy phá những tỉnh biên thùy đã
không thực hiện được. Có thể bởi hậu quả của những cuộc
hành quân Tây chinh vượt biên Cửu Long của Quân Đoàn IV,
Toàn Thắng của Quân Đoàn III và Bình Tây của Quân Đoàn
II trong năm 1970 đã gây tổn thất nặng ở những kho tiếp
tế hậu cần của cộng sản, nên chúng khó thể đủ sức mở
được những mặt trận lớn như mong muốn. Đêm 31.1.1971,
lúc 3 giờ sáng, một lực lượng cộng quân tấn công vị trí
của Đại Đội 838 Địa Phương Quân tại làng Plei Kênh Săn
thuộc tỉnh Pleiku..
Cuộc tấn công đã rất sớm bị thảm bại vì quân địch đã
không thể ngờ rằng, có những người vợ lính cũng đã chiến
đấu dũng mãnh như thế nào. Đại Đội 838 Địa Phương Quân
đa số chiến sĩ là người dân tộc Thượng, là những chiến
sĩ sinh ra và lớn lên ở giữa núi rừng cao nguyên, đã hun
đúc các anh trở thành những con người cứng rắn như những
tảng đá khổng lồ trên triền dãy Trường Sơn. Người Thượng
quen sống kiếp du mục du canh, nên khi người lính Thượng
Địa Phương Quân đóng đồn ở đâu thì vợ con của các anh
cũng đi theo và nhanh chóng thích ứng với môi trường
cùng cuộc sống mới ở nơi đó. Tuy là phụ nữ, nhưng những
người đàn bà Tây nguyên dẻo dai không kém gì người đàn
ông Thượng. Vai mang gùi nặng trên lưng, chân trần chai
sạn vì đá cứng và gai nhọn của núi rừng, cùng hoàn cảnh
sinh tồn khắc nghiệt, bất cứ một người phụ nữ Thượng nào
cũng đã được thiên nhiên rèn luyện nên thành một mẫu
người khỏe mạnh, rắn rỏi, nhưng vẫn giữ được những dường
nét mềm mại tràn đầy mạch sống. Cho nên khi cuộc chiến
đấu nổ ra, thì những người đàn bà đó đã rất nhanh chóng
trở thành những người nữ binh hăng hái cầm súng đánh
địch. Một trong những người chị đó là chị Ksor Amreng,
vợ của Binh Nhứt Kpa Dan.
Anh chị Dan và Amreng đều là người sắc tộc Djarai, sinh
quán ở quận Phú Túc, tỉnh Phú Bổn. Từ sau khi thành hôn,
anh Dan nhập ngũ, thì chị Amreng cũng đã theo chồng lên
sinh sống trong những tiền đồn hẻo lánh ở biên giới
trong quận Phú Nhơn, tỉnh Pleiku, những địa danh thật xa
lạ với chị : Queng Mep, Plei Kênh Săn. Khi quân cộng sản
Bắc Việt nổ súng tấn công Plei Kênh Săn, chị Amreng đã
vững vàng trong tư thế phụ xạ thủ đại liên cho chồng.
Khẩu đại liên M60 nằm phía sau những lổ châu mai nhỏ đã
bị giới hạn rất nhiều khu vực tác xạ, anh Dan quyết định
dời khẩu đại liên sang một vị trí khác có xạ trường rộng
lớn và bao quát hơn. Trong lúc chị Amreng chạy đi chạy
lại để khiêng những thùng đạn đại liên sang vị trí mới,
thì có ba tên Đặc Công Việt cộng đã nhào vào đánh cận
chiến với anh Dan. Anh Dan thật dũng cảm, như một con
beo ở rừng xanh, bằng tay không anh đã vật lộn với chúng
mà không nao núng. Chị Amreng vừa vác một thùng đạn đến,
quát bảo anh Dan tránh ra xa. Hiểu ý vợ, anh Dan lăn một
vòng, một trái lựu đạn M26 từ trong tay chị Amreng được
ném tới. Ba tên Đặc Công chưa kịp phản ứng, thì một
tiếng nổ chát chúa đã đốn gục chúng xuống ngay bên cạnh
đường giao thông hào. Khẩu đại liên M60 trong tay đôi vợ
chồng Dan và Amreng đã bắt đầu nổ dòn dã ngăn chận tất
cả những cuộc tấn công biển người của địch vào đồn. Anh
Dan đang say mùi thuốc súng, anh đã không để ý nhiều tên
Đặc Công khác đã bò vào gần khẩu đại liên để mở cuộc cận
chiến lần nữa.
Nhưng chúng không biết rằng người nữ binh vóc dáng nhỏ
bé với khuôn mặt hiền lành như một em bé đã rất cảnh
giác. Ba trái lựu đạn M26 đã được chị quăng ra rất chính
xác vào những cái bóng đen đang bò lổn nhổn. Giữa tiếng
súng nổ ầm ầm, chị Amreng đã có thể nghe thấy tiếng kêu
gào thảm thiết của những lính địch trúng phải lựu đạn
của chị. Đến lúc này thì anh Kpa Dan chợt nhận ra rằng
mình đã bị thương, chị Amreng lập tức trở thành xạ thủ
chính, anh Dan lùi qua một bên làm xạ thủ phụ cho chị.
Hào hùng không kém gì những đấng nam nhi, người nữ chiến
sĩ ấy đã cùng với khẩu M60 đốn ngã hàng loạt cuộc tấn
công của giặc. Sinh mạng của cái đồn nhỏ Plei Kênh Săn
phần lớn trông cậy vào khẩu đại liên. Nói một cách chính
xác, toàn tiền đồn cậy nhờ vào đôi bàn tay nhỏ nhắn của
một cô gái mà ngày thường rất hiền hòa và ít nói này.
Khi ánh bình minh lên, giặc chấp nhận thua cuộc và đã
rút đi, chiến trường đã hoàn toàn im tiếng súng, lũ chim
rừng sau một đêm kinh hoàng đã ríu rít hát ca trên cành
lá đón chào một ngày mới. Tin chiến thắng của Plei Kênh
Săn đã bay về đến Pleiku và cái tên Ksor Amreng thật dịu
dàng và thật đẹp ấy đã được người dân thành phố gọi là
buồn muôn thuở này nhắc nhở nhiều. Kinh lẫn Thượng, đồng
bào Pleiku đã chung góp gửi đến chị Amreng và Đại Đội
838 Địa Phương Quân nhiều tặng phẩm và tiền thưởng.
Thiếu Tướng Ngô Dzu, Tư Lệnh Quân Đoàn II & Quân Khu
II đã đích thân bay trực thăng đến Plei Kênh Săn trân
trọng trao gắn cho người lính không số quân Amreng chiếc
huy chương cao quí Anh Dũng Bội Tinh, một vinh dự hiếm
có dành cho một người dân sự .
Tấm gương chiến đấu của chị Ksor Amreng là một trong
nhiều tấm gương thầm lặng còn chưa được biết của những
người chị trên cao nguyên trong cuộc chiến tranh bảo
quốc bi tráng của dân tộc Việt Nam. Ngày nay, những thế
hệ đi sau anh chị Dan và Amreng sẽ mãi nhớ rằng, dòng
máu kiên cường uy vũ bất năng khuất, mà anh chị cùng
những chiến sĩ Thượng, từng một thời thể hiện dưới lá
Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa và Quân Kỳ Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa, là một niềm kiêu hãnh sáng chói mà họ, những
đồng bào Thượng đang bị kềm kẹp oan khuất dưới bàn tay
sắt máu của cộng sản Bắc Việt, cũng sẽ có ngày vùng lên
ném những quả lựu đạn, và bắn những tràng đại liên vào
giữa mặt bọn chúng, để hủy diệt chúng, bọn vô dân tộc,
vô thần đó, và cho chúng biết lòng quật khởi phi thường
của người dân Nước Nam.
Vì vậy, khi đã biết sử, ta không thể sống tồi tàn, bệ rạc, ăn cắp của công, vì cha ông ta, cách đây mấy trăm năm đã sống có nhân cách, sống tử tế, sống lương thiện.
Bấy nhiêu đó cũng khẳng định được rằng bài Tình Anh Bán Chiếu xứng đáng là "bài vọng cổ vua" của làng cổ nhạc miền Nam Việt Nam thời ấy và tận đến bây giờ.
Chỉ có một câu lục và một câu bát, một câu ca dao có tổng cộng chỉ 14 chữ mà ông bà mình kể lại một thiên anh hùng ca của những người dân Việt bất khuất.
. Lâu lâu nhớ đến ông, nước mắm thắm duyên nhau mà ông Sáu, tôi vẫn hình dung ra được ông bận đồ ta trắng, tóc búi tó, như một ông tiên mà không cần thi ca đánh bóng.
nhờ sự chỉ đạo kiên quyết của Tướng Đảo, tất cả đều là những yếu tố quan trọng giúp đánh bại được những cuộc tấn công của quân CSBV trong những ngày đầu tiên.
nhưng theo tôi nghĩ, câu chuyện giữa cô bé 16 tuổi tên Trúc và anh chàng học sinh nghèo tên Khải hơi giống chuyện cổ tích của một thời đã qua, nay khó có nữa
Những mảnh đời méo mó qua những mẩu đối thoại thô tục (thượng dẫn) của những kẻ may mắn sống sót đến được bến bờ, cùng với oan hồn của hàng triệu sinh linh
Và tôi lại nghĩ: bọn… ’đỉnh cao trí tuệ’ này không tình không nghĩa, hữu thủy vô chung, tiền hậu bất nhứt. . . thì làm gì biết được Tiết Nhơn Quí là ai?“.
Chính người da trắng văn minh đã cầm súng chiến đấu sống_chết với người da trắng và đấu khẩu không khoan nhượng trên các diễn đàn, mặt trận chính trị, tôn giáo và văn hoá để giải phóng cho nô lệ da đen.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.