Ngày ấy tuổi trẻ chúng tôi bị đóng khung. Phận người đành phải thả trôi theo dòng định mệnh. Chúng tôi không có đường chọn lựa. Hoặc là vào
lính để chấp nhận gian khó, hiểm nguy. Hoặc ngày đêm trốn lánh sự chận bắt của cơ quan công quyền, sống một cuộc đời vô định đầy hồi hộp và bất
trắc. Sống chết có số. Ai sao mình vậy. Và thế là tôi trở thành một quân nhân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ngay khi vừa đúng 20 tuổi, lứa tuổi thần tiên mang nhiều hoài bảo nhứt của thanh niên trong mọi thời đại.
Mưa nắng quân trường tại Đồng Đế chỉ là bước đầu cho những ngày gian khó. Nắng quái, mưa dầu của 42 ngày Rừng Núi Sình Lầy tại Dục Mỹ cũng chỉ là để rèn luyện ý chí, sức chịu đựng và khả năng thích ứng của thể chất. Lửa đạn chiến trường mới là ngời thầy đích thực dạy cho chúng tôi những bài học nhớ đời. Hai chuyến thực tập tác chiến tại Núi Dài, Châu Đốc và trên vùng rừng núi Pleiku tuy chưa đủ để gọi là kinh nghiệm chiến trường nhưng cũng đủ để giúp tôi vững lòng chấp nhận hoàn cảnh khi
đối diện với sự tàn khốc của chiến tranh, và từ đó có thêm chút tự tin khi chính thức nhập cuộc lúc ra đơn vị. Cùng lúc đó, tâm trạng tôi cũng dần dà thay đổi. Tâm trạng sầu đời trong tôi biến mất từ lúc nào
không hay. Khi nhận lấy trách nhiệm chỉ huy một trung đội, là lúc tôi nhận ra mình đã thật sự trưởng thành về mọi mặt. Tôi vững lòng dấn thân.
Tôi tin tưởng đồng đội thuộc cấp. Tuy họ không "ngán " tôi chút nào- vì
ngoại hình của tôi vốn không phải là vóc dáng lý tưởng của một sĩ quan trung đội trưởng- nhưng họ rất thương mến tôi. Họ cũng vừa là thầy, vừa là bạn, nên hòa đồng với họ không khó khăn chút nào.
Càng nhớ càng thấy thương những người lính đã cùng tôi chia xẻ gian
nguy. Đa số là thanh niên. Họ- cũng như tôi- nhập ngũ khi tuổi đời đang
độ tươi đẹp nhứt. Họ chỉ biết nghe lệnh và ôm súng lao vào lửa đạn mà không hề có một lời than trách. Biết chỗ chết mà vẫn cứ tiến vào. Biết "
một đi không trở lại " mà vẫn " Xung Phong ...Sát! " rân trời. Nếu như tuổi lính được tính bằng năm quân vụ thì một năm cầm quân tác chiến của tôi không có nghĩa lý gì so với quãng thời gian phuc vụ hay nằm bệnh viện dưỡng thương của nhiều " lão làng " kỳ cựu nhứt trong quân đội. Nhưng bấy nhiêu đó cũng đã quá đủ để mấy lẩn " giỡn mặt " với Tử Thần khi giao chiến với đám bộ đội chính quy trong vùng núi Thất Sơn, Thạch Trụ, Mộ Đức,
Tiên Phước, Quế Sơn, Nông Sơn hay dò dẫm từng bước trên các bãi mìn của các vùng Phong Thử, Gò Nổi thuộc quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam và tại xã Đức Lương trong quận Mộ Đức, Quảng Ngãi.
Không tài nào nhớ hết tất cả mọi người. Những gương mặt cứ nhòe dần
trong tâm tưởng. Theo thời gian thì trí nhớ cũng cùn mằn. Có lúc chỉ mường tượng người xưa, cảnh cũ...rồi thôi! Họ đến rồi đi sau năm lần bổ sung quân số.. Đi bằng nhiều cách: vĩnh viễn, tạm thời, đi không trở lại
sau hơn mười tháng hành quân và hai tháng dưỡng quân ven quốc lộ 1 hay ngay tại hậu cứ ở Hòa Khánh, Đà Nẵng. Rốt cuộc ngày tôi bàn giao trung đội để đi học khóa Sĩ Quan Tiếp Liệu Binh Đoàn thì số người cũng vẫn không hơn hai chục mạng. Đa số những người mới về đơn vị chừng vài tháng
là hy sinh hoặc trọng thương rồi giải ngũ. Thời gian sống với nhau không lâu nhưng người Lính - tuy bất sá, cuồng vội, ba gai, phá phách, bất
cần đời- vẫn gắn bó với nhau bằng thân tình chỉ có với nhau trong quân ngũ: tình huynh đệ, nghĩa chi binh có tính cách rất...thầy trò mặc dù tuổi đời của quan và lính vốn xấp xỉ nhau. Cấp bậc chỉ là để phân biệt ai chỉ huy và ai là người nhận lệnh. Còn lúc dưỡng quân- ven quốc lộ, quanh làng mạc, hay tại phố xá hậu phương- thì quan và lính đề huề như nhau, với những màn chồm hổm phô lưng trần nốc rượu hoặc đàn ca hát xướng đủ các loại nhạc trên đời.
Quên sao được những lần nhai vội, nuốt nhanh bên cạnh chiếc poncho gói xác của đồng đội! Nhớ vô cùng những thân hình bê bết máu, mắt mở trừng như muốn níu giữ sự sống đang rất mong manh. Và càng không thể quên từng miếng lương khô, từng hơi thuốc lá chuyền tay nhau cho đỡ thèm, đỡ đói. Người lính Việt Nam Cộng Hòa tận hiến máu xương bằng cách tuân hành kỷ luật thép của quân đội. Và tôi, kẻ còn nguyên vẹn hình hài sau khi chấm dứt chiến tranh quả đã nợ đồng đội những ân tình cùng với món nợ máu xương vốn không có gì tương xứng để đền đáp. Họ chết cho tôi sống. Họ mất đi một phần thân thể và trở nên tàn phế vĩnh viễn để tôi biết thế nào là hạnh phúc của một kẻ còn lành lặn tứ chi. Người khinh binh của tôi ơi! Tôi
nợ các anh, các bạn, các em nhiều quá! Tôi thật sự thẹn lòng khi chợt nhận ra là mình đã không hề có tiếng cám ơn khi đồng đội của tôi đã trở thành " những đòn bánh tét nhòe nhoẹt máu ", hay ngay cả lúc tiễn thương
binh về tuyến sau, tôi cũng không có lời tri ân đúng nghĩa mà chỉ qua loa vài câu an ủi vội vàng ...rồi thôi!
|